Bản án 23/2020/DS-ST ngày 25/05/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 23/2020/DS-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 352/2019/TLST-DS, ngày 20 tháng 12 năm 2019, về việc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2020/QĐXXST-DS, ngày 20 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt S, sinh năm 1977 (Có mặt).

Đa chỉ: K, thị trấn V, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn:

1. Ông Cao Văn Đ, sinh năm 1979 (Vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị D (Vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16 tháng 12 năm 2019 cùng các văn bản khác kèm theo, nguyên đơn ông Nguyễn Việt S trình bày: Vào ngày 14 tháng 02 năm 2019, ông có bán cho ông Cao Văn Đ một điện thoại di động hiệu Samsung và ông Cao Văn Đ còn nợ lại ông số tiền 6.200.000 đồng. Giữa ông và ông Cao Văn Đ có thỏa thuận trả góp trong thời hạn 04 tháng, mỗi tháng trả 1.550.000 đồng. Việc mua bán được xác lập cụ thể tại Hợp đồng số: 584221 ngày 14/02/2019. Nhưng từ khi giao dịch đến nay, ông Cao Văn Đ không thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Nay ông yêu cầu ông Cao Văn Đ và bà Nguyễn Thị D (là vợ ông Cao Văn Đ) cùng chịu trách nhiệm trả cho ông số tiền còn nợ là 6.200.000 đồng và yêu cầu tính lãi suất theo quy định của pháp luật kể từ ngày 14/02/2019 cho đến khi xét xử sơ thẩm.

Bị đơn ông Cao Văn Đ và bà Nguyễn Thị D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không lý do và không cung cấp tài liệu, chứng cứ hay ý kiến đối với nội dung khởi kiện của ông Nguyễn Việt S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Việc ông Nguyễn Việt S khởi kiện ông Cao Văn Đ và bà Nguyễn Thị D để đòi lại tiền mua điện thoại còn nợ nên đây là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Đồng thời, ông Cao Văn Đ và bà Nguyễn Thị D được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Cao Văn Đ và bà Nguyễn Thị D là có căn cứ.

[2] Xét về quan hệ tranh chấp thì theo ông Nguyễn Việt S xác định là ông Cao Văn Đ có mua điện thoại di động tại cửa hàng của ông và còn nợ lại tiền nên ông kiện ông Cao Văn Đ để đòi lại tiền. Từ đó, có căn cứ xác định đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản được quy định tại Điều 430, 440 của Bộ luật dân sự.

[3] Về nội dung thì ông Nguyễn Việt S xác định là ông Cao Văn Đ mua điện thoại và còn nợ ông số tiền 6.200.000 đồng, ông thỏa thuận cho ông Cao Văn Đ trả góp cho ông trong thời gian 04 tháng, mỗi tháng trả 1.550.000 đồng, nhưng ông Cao Văn Đ không thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận, nên ông kiện ông Cao Văn Đ cùng vợ ông Cao Văn Đ là bà Nguyễn Thị D cùng chịu trách nhiệm trả lại cho ông số tiền 6.200.000 đồng.

Để chứng minh cho lời khai của mình, ông Nguyễn Việt S đã cung cấp cho Tòa án “Hợp đồng điện thoại” số: 584221 ngày 14/02/2019 được ông Nguyễn Việt S và ông Cao Văn Đ cùng xác lập. Theo nội dung hợp đồng thì ông Cao Văn Đ phải trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền 6.200.000 đồng, trả trong thời hạn 04 tháng đúng như ông Nguyễn Việt S đã khai.

Quá trình giải quyết vụ án ông Cao Văn Đ không có ý kiến phản đối về nội dung khởi kiện và chứng cứ do ông Nguyễn Việt S cung cấp và cũng không có yêu cầu phản tố. Từ đó, có đủ cơ sở xác định ông Cao Văn Đ có nợ ông Nguyễn Việt S số tiền theo “Hợp đồng điện thoại” số: 584221 ngày 14/02/2019 được ông Nguyễn Việt S và ông Cao Văn Đ cùng xác lập.

Do ông Cao Văn Đ đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S và buộc ông Cao Văn Đ chịu trách nhiệm trả toàn bộ số tiền còn nợ là 6.200.000 đồng cho ông Nguyễn Việt S là có cơ sở.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Việt S thay đổi nội dung khởi kiện, ông chỉ yêu cầu ông Cao Văn Đ trả cho ông 6.200.000 đồng, lãi suất ông không yêu cầu ông Cao Văn Đ phải trả. Đồng thời, ông cũng chỉ yêu cầu ông Cao Văn Đ trả tiền cho ông, không yêu cầu bà Nguyễn Thị D phải cùng chịu trách nhiệm trả tiền với ông Cao Văn Đ. Việc thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S là phù hợp và có căn cứ, nên được chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch ông Cao Văn Đ phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Ông Nguyễn Việt S được hoàn lại tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng các điều 430, 440 của Bộ luật dân sự;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S.

Buộc ông Cao Văn Đ trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền mua điện thoại còn nợ là 6.200.000 đồng (Sáu triệu hai trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, ông Cao Văn Đ phải chịu 310.000 đồng. Ông Nguyễn Việt S được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã dự nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0019706 ngày 20 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Ông Nguyễn Việt S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Cao Văn Đ và bà Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/DS-ST ngày 25/05/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:23/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về