Bản án 23/2020/DS-ST ngày 24/06/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 23/2020/DS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 94/2020/TLST-DS ngày 24 tháng 04 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán (vật tư đựng mũ cao su)” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐST-DS ngày 08 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lý Thị Th, sinh năm 1988.

Địa chỉ: ấp Q, xã E, huyện R, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thủy T, sinh năm 1988.

Địa chỉ: ấp T, xã Y, huyện R, tỉnh Bình Dương.

Chị Th và chị T có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng chị Lý Thị Th trình bày: Do chổ quen biết nhau, vào ngày 03/02/2020 chị có mua lại 01 phần lô cao su thanh lý (là 281 cây) của chị T với số tiền 15.200.000 (mười lăm triệu hai trăm nghìn) đồng/02 tháng và tiền chén đựng mủ 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng. Tổng cộng 02 khoản là 16.600.000 (mười sáu triệu sáu trăm nghìn) đồng, hai bên có làm hợp đồng với nhau và đã giao đủ tiền, thời gian mua bán từ ngày 03/02/2020 đến ngày 03/04/2020 sẽ kết thúc hợp đồng, thời hạn theo hợp đồng 02 bên đã giao kết chưa mãn nhưng chị T đã vi phạm hợp đồng, vì phần lô cao su chị T bán cho chị đã được chị L lấy lại để thanh lý cưa cây bán gỗ, chị L nói bán phần lô cao su cho chị T 02 tháng, từ ngày 10/01/2020 đến ngày 10/03/2020, chị T ký kết hợp đồng với chị L đến tháng 03/2020 hết hạn mà còn bán lại cho chị đến tháng 04/2020, như vậy chị T đã vi phạm hợp đồng với chị nên ngày 06/3/2020 chị T có trả lại cho chị 29 ngày hợp đồng chưa mãn với số tiền 7.346.000 (bảy triệu ba trăm bốn mươi sáu nghìn) đồng, tiền chén đựng mủ 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng chị T chưa trả lại cho chị. Nay chị yêu cầu chị T trả lại cho chị 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Thủy T trình bày: Chị xác nhận lời trình bày của chị Th về thời gian ký kết trong hợp đồng mua bán là đúng, chị có mua phần lo cao su của chị L và bán lại cho chị Th với số tiền 15.200.000 (mười lăm triệu hai trăm nghìn) đồng/02 tháng và tiền chén đựng mũ 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng. Tổng cộng 02 khoản là 16.600.000 (mười sáu triệu sáu trăm nghìn) đồng, giữa chị và chị Th có lập hợp đồng với nhau và được ký kết từ ngày 03/02/2020 đến ngày 03/04/2020 là mãn hợp đồng, chưa hết thời hạn theo hợp đồng giữa chị và chị Th nhưng chị L đã thanh lý cây nên chị mới vi phạm hợp đồng với chị Th và có trả lại cho chị Th 29 ngày còn lại theo hợp đồng với số tiền 7.346.000 (bảy triệu ba trăm bốn mươi sáu nghìn) đồng, đối với chén đựng mũ chị không đồng ý trả lại tiền cho chị Th, vì chị đã bán cho chị Th xong.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của chị Th và chị T. Chị Nguyễn Thị Thủy T có nghĩa vụ trả cho chị Lý Thị Th số tiền 443.053 (bốn trăm bốn mươi ba nghìn không trăm năm mươi ba) đồng. Ghi nhận chị Th không yêu cầu tính lãi suất và rút lại 01 phần yêu cầu khởi kiện đối với chị T về số tiền 956.947 (chín trăm năm mươi sáu nghìn chín trăm bốn mươi bảy) đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Th khởi kiện tranh chấp hợp đồng mua bán với chị T, hiện chị T có hộ khẩu thường trú và đang cư trú tại ấp T, xã Y, huyện R, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Th yêu cầu chị T trả lại số tiền 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng, không yêu cầu tính lãi suất. Ngược lại chị T không đồng ý và cho rằng không nợ chị Th.

Xét yêu cầu của chị Th thì thấy: Chị Th đã cung cấp tài liệu, chứng cứ là hợp đồng mua bán da cạo lập ngày 03/2/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án chị T thừa nhận tại hợp đồng mua bán da cạo trên là do chính chị viết và thừa nhận số tiền chén đựng mũ cao su là 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng còn tranh chấp và có yêu cầu chị Th đem chén đến nhà sẽ trả lại tiền. Do đó yêu cầu của chị Th là có căn cứ.

Xét lời trình bày của chị T, trong quá trình giải quyết vụ án chị cho rằng không còn nợ chị Th, số chén đựng mủ cao su chị đã bán cho chị Th xong nên không đồng ý trả lại tiền cho chị Th và chị có yêu cầu chị Th đem chén đến nhà chị trả lại tiền nhưng số chén trên chị đã lấy bán lại cho chị L và đã nhận tiền của chị L có làm giấy tay giao nhận tiền vào ngày 05/3/2020, việc chị không thừa nhận còn nợ nhưng chị không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình. Nhưng tại phiên tòa chị đồng ý trả cho chị Th số tiền 443.053 (bốn trăm bốn mươi ba nghìn không trăm năm mươi ba) đồng và chị Th cũng đồng ý theo ý kiến của chị T, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của chị Th và chị T là phù hợp theo quy định tại Điều 430 và Điều 440 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận chị Th rút 01 phần yêu cầu khởi kiện đối với chị T về số tiền 956.947 (chín trăm năm mươi sáu nghìn chín trăm bốn mươi bảy) đồng.

[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Chị T phải chị án phí dân sự sơ thẩm có giá nghạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 217, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 430, 440 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lý Thị Th đối với chị Nguyễn Thị Thủy T về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán (vật tư đựng mủ cao su)”.

Buộc chị Nguyễn Thị Thủy T phải trả cho chị Lý Thị Th số tiền 443.053 (bốn trăm bốn mươi ba nghìn không trăm năm mươi ba) đồng. Ghi nhận chị Th không yêu cầu tính lãi suất.

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Lý Thị Th đối với chị Nguyễn Thị Thủy T về số tiền 956.947 (chín trăm năm mươi sáu nghìn chín trăm bốn mươi bảy) đồng.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc chị T phải chịu 22.152 (hai mươi hai nghìn một trăm năm mươi hai) đồng án phí sơ thẩm dân sự. Hoàn trả lại cho chị Th 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2016/0032605 ngày 20/4/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng.

Kể từ ngày người được thi hành án chị Th có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chị T không chịu trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng người phải thi hành án chị T còn phải trả cho người được thi hành án chị Th số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/DS-ST ngày 24/06/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:23/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về