Bản án 23/2020/DS-ST ngày 20/07/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 23/2020/DS-ST NGÀY 20/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 20 và 21 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 18/2020/TLST- DS ngày 06 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2020/QĐXXST- DS ngày 10 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2020/QĐST- DS ngày 01- 7-2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông K’ B, sinh năm 1957 Địa chỉ: Số 63 thôn H, xã B, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Vợ chồng ông K’ Br, sinh năm 1974 Bà Ka Tr, sinh năm 1978 Địa chỉ: Số 77 tổ dân phố K, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Ka D, sinh năm 1960 Địa chỉ: Số 63 thôn H, xã B, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

Ông B, bà D có mặt, bị đơn vợ chồng ông Br, bà Tr vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai và lời trình bày tại phiên tòa nguyên đơn ông K’ B trình bày:

Do quen biết nên ông có cho vợ chồng ông Br vay số tiền làm 04 lần cụ thể như sau: Ngày 28-10-2016 ông Br, bà Tr vay của ông số tiền 300.000.000đ, ngày 29-10-2016 ông Br vay tiếp 1.300.000.000đ và ngày 30-10-2016 vay 750.000.000đ và 650.000.000đ. Tổng cộng 4 lần vay với số tiền 3.000.000.000đ. Đến ngày 11-11-2016 vợ chồng ông Br viết giấy mượn tiền và ký xác nhận, lãi suất thỏa thuận tuy nhiên từ đó đến nay vợ chồng ông Br không chịu trả mặc dù ông nhiều lần yêu cầu trả. Nay ông khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Br, bà Ka Tr trả số tiền gốc 3.000.000.000đ, không yêu cầu tính lãi.

Tài liệu chứng cứ chứng minh “ Giấy mượn tiền ghi ngày 11-11-2016”.

+ Bị đơn vợ chồng ông Br, bà Tr vắng mặt tại phiên tòa tuy nhiên tại bản tự khai ngày 09-3-2020 và biên bản hòa giải ngày 05-6-2020 ông Br trình bày: Ông có vay tiền của ông B làm nhiều lần từ tháng 6 năm 2016, số tiền cụ thể vay từng lần ông không nhớ, đến tháng 10-2016 thì có viết giấy vay từng lần tuy nhiên cũng không nhớ ngày tháng và số tiền vay cụ thể. Đến ngày 11-11-2016 thì ông có viết giấy mượn tiền và ký ghi họ tên và điểm chỉ, ông khẳng định việc vay mượn tiền này không liên quan gì đến vợ ông là bà Ka Tr, chữ ký và ghi họ tên trong giấy mượn tiền vợ Ka Tr là do ông tự ký và ghi họ tên. Nay ông B khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông trả thị ông không đồng ý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ka D trình bày: Khi ông B chồng bà cho ông Br vay thì bà có biết, bà có ngăn cản nhưng ông không nghe nay bà thống nhất với ý kiến trình bày của ông B và không có ý kiến bổ sung gì thêm.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng có quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật. Phía bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghỉa vụ của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn vợ chồng ông Br có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông B, bà Ka D số tiền gốc 3.000.000.000đ, không yêu cầu tính lãi nên không xem xét.

Vợ chồng ông Br, bà Tr phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu và xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông K’ Br, bà Tr đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của ông B, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại giấy mượn tiền 11-11-2016 do nguyên đơn ông B giao nộp cho Tòa án thể hiện thì ông Br có vay của ông B số tiền 3.000.000.000đ lãi suất thỏa thuận, không ghi thời hạn trả nợ, từ đó đến nay không trả.

Nay ông B khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết xác định nợ trên là nợ chung của vợ chồng ông Brvà buộc vợ chồng ông Br, bà Tr có trách nhiệm trả số tiền gốc 3.000.000.000đ, không yêu cầu tính lãi suất. Ông Br cho rằng khi vay chỉ có một mình ông vay, chữ ký ghi họ tên bà Ka Tr vợ ông trong giấy vay tiền là do ông tự ký và ghi họ tên tuy nhiên ông B trình bày khi bể nợ thì có cả ông Br, bà Tr đến nhà ông để khất số nợ trên và bà Tr cũng biết số nợ trên hơn nữa khi vay là số tiền lớn, ông Br, bà Tr đang là vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định việc vợ chồng ông Br vay của ông B số tiền là có căn cứ và còn nợ số tiền gốc 3.000.000.000 đồng nên buộc ông Br, bà Tr cùng có trách nhiệm trả số nợ trên cho vợ chồng ông B là có căn cứ chấp nhận.

[3] Từ những phân tích trên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B buộc vợ chồng ông Br, bà Tr có nghĩa vụ thanh toán trả số tiền còn nợ là phù hợp.

[4] Về lãi suất: Nguyên đơn ông B không yêu cầu tính lãi nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án do chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn nên bị đơn vợ chồng ông Br, bà Tr phải chịu án phí 3.000.000.000đ, án phí là 72.000.000đ + 1.000.000.000đ x 2%= 20.000.000đ. Tổng cộng 92.000.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K’ B về việc Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản.

Buộc vợ chồng ông K’ Br, bà Ka Tr có trách nhiệm thanh toán trả cho vợ chồng ông K’ B, bà Ka D số tiền 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

2.Về án phí: Vợ chồng ông Br, bà Tr phải chịu 92.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẫm. Người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/DS-ST ngày 20/07/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:23/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về