Bản án 23/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sốp Cộp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo sau đây:

Họ và Tên: Lò Văn T - Sinh năm 2000, tại huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản Bang Trên, xã Yên Hưng, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ văn hoá: 11/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông Lò Văn Th và bà Cà Thị Th1; bị cáo chưa có vợ, con Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2019; Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 0 giờ 05 phút ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại khu vực bản Pe, xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp, tổ công tác của Công an huyện Sốp Cộp đã phát hiện và bắt quả tang Lò Văn Thêm đang có hành vi cất dấu trái phép chất ma tuý; vật chứng thu giữ của Lò Văn T một gói nilon màu hồng bên trong có chứa 4 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp; Lò Văn T bị bắt giữ bị dẫn giải đến cơ quan công an huyện Sốp Cộp để làm rõ.

Ngày 06/3/2019, cơ quan điều tra đã mở niêm phong cân tịnh vật chứng thu giữ của Lò Văn Thêm và lấy mẫu giám định, xác định như sau: 4 viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn T có khối lượng là 0,401 gam, đã lấy toàn bộ 0,401 gam làm mẫu giám định, ký hiệu T, vật chứng còn lại là 01 phong bì niêm phong ban đầu và 01 mảnh nilon màu hồng nhập vào kho vật chứng của Công an huyện Sốp Cộp.

Kết luận giám định số 549 ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy, loại Methamphetamine; mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, đã truy tố Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo khai nhận: Bị cáo là học sinh đang ở khu nhà trọ thuộc bản Pe, xã Sốp Cộp; khoảng 23 giờ 30 phút ngày 04/3/2019, bị cáo đang nằm trên giường sử dụng điện thoại thì có tổ công tác của Công an huyện Sốp Cộp đến khám xét phòng trọ của bị cáo và phát hiện trong bao thuốc lá của bị cáo 01 gói ma túy; số ma túy đó bị cáo không biết ai đã bỏ vào bao thuốc lá của bị cáo, bị cáo không chứng minh được nên bị cáo nhận chịu trách nhiệm về số ma túy đã bị thu giữ Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bầy lời luận tội, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; tuyên xử phạt bị cáo từ 15 đến 20 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; tịch thu để tiêu hủy mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì niêm phong ban đầu;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo đã trực tiếp cất dấu 0,401 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng; Hành vi đó đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm được quy định tại điều 249 Bộ luật hình sự; số lượng ma túy bị cáo cất dấu là không lớn, do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội; số lượng ma tuý bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ lây lan, trôi nổi trong xã hội, làm cho tệ nạn ma tuý tại địa phương ngày càng phức tạp, gây mất trật tự an toàn xã hội; Do đó, bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa lần nào bị xử lý vi phạm do thực hiện hành vi trái pháp luật;

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; do đó bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

[5] Bị cáo phạm tội về ma tuý và là đối tượng sử dụng chất ma tuý, do đó cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo và đoạt tuyệt với ma tuý.

[6] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo là đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý về hình sự, nhưng do không xác định được đối tượng, do đó chưa có căn cứ để xử lý ở vụ án này; đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[7] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án là 0,401 gam Methamphetamine, đã lấy toàn bộ 0,401gam làm mẫu giám định và đã sử dụng hết trong quá trình giám định; vật chứng còn lại là 01 phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng đều là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý lẽ ra ngoài hình phạt tù bị cáo sẽ phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định của khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, nhưng xét thấy bị cáo chưa có gia đình riêng và không có tài sản riêng, kinh tế phụ thuộc vào gia đình sẽ không có điều kiện thi hành, do đó có thể xem xét miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về án phí bị cáo phải chịu án phí theo qui định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý;

1. Về hình phạt: Xử phạt Lò Văn T 13(mười ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 05 tháng 3 năm 2019 2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo 3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì thư niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 12/6/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo Lò Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về