Bản án 23/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 23/2019/HSST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2019/TLST-HS ngày 29/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXXST-HS ngày 13/02/2019 đối với bị cáo:

Thạch Ngọc H, sinh ngày 10 tháng 11 năm 1999 tại Kiên Giang; Nơi đăng ký HKTT: ấp BL, xã N Ti, huyện A B, tỉnh Kiên Giang. Nơi ở hiện nay tại: Tổ 7, khu phố 8, phường L B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Khơ Me; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thạch H, sinh năm 1968 và bà Trần Thị Th, sinh năm 1977; Gia đình có có 02 anh em, bị cáo là con lớn; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 24/11/2018. Đến ngày 03/12/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

- Bị hại: Chị Hà Thị Hoài T, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Khu phố 8, phường L B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Thạch Thị N, sinh năm 2000.

Nơi đăng ký HKTT: Ấp BL, xã N Ti, huyện A B, tỉnh Kiên Giang. Nơi ở hiện nay tại: Tổ 7, khu phố 8, phường L B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai; (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1987.

Địa chỉ: 259/27, Khu phố 8, phường L B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt).

3. Anh Hồ Văn T, sinh năm 1974

HKTT: Ấp A B, xã M HA, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp. Nơi ở hiện nay tại: Khu phố 8, phường L B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thạch Ngọc H và chị Hà Thị Hoài T có quan hệ tình cảm với nhau. H biết chị T có chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của chị T. Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 22/11/2018 H điều khiển xe mô tô biển số 66V1-346.15 đến chợ K860 thuộc để đón chị T đi chơi. Sau đó H chở chị T đi đến bãi đất trống ở khu vực nghĩa địa thuộc ấp P S, xã BS, huyện T B thì dừng xe, H và chị T cùng ngồi trên xe nói chuyện tâm sự với nhau. Trong lúc đang ngồi nói chuyện thì H nói dối chị T đưa điện thoại của chị T cho H để cất vào trong cốp xe để khỏi bị rớt hỏng điện thoại, chị T tưởng thật nên đưa điện thoại cho H cất vào trong cốp xe mô tô 66V1-346.15. Sau đó H nổ máy xe bỏ chạy về phòng trọ ở khu phố 8, phường LB, thành phố BH. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H đem điện thoại của chị T đến cửa hàng mua bán sửa chữa điện thoại di động “Phong Phong Vũ” ở phường LB, thành phố BH bán cho anh Nguyễn Thanh P được số tiền 2.400.000 đồng. Khi mua điện thoại của H, anh P không biết là tài sản do H chiếm đoạt của chị T mà có.

Sau khi bị chiếm đoạt tài sản, chị Hà Thị Hoài T đã làm đơn trình báo Đồn Công an khu công nghiệp Hố Nai - Sông Mây. Công an Đồn khu công nghiệp Hố Nai- Sông Mây đã tiến hành thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro của chị T bị H chiếm đoạt sau đó đem bán cho anh P và 01 xe mô tô biển số 66V1-346.15 đồng thời lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Trảng Bom để giải quyết theo thẩm quyền.

Theo bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Trảng Bom thì chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro mà Thạch Ngọc H chiếm đoạt của chị Hà Thị Hoài T có trị giá là 3.800.000 đồng (Ba triệu tám trăm ngàn đồng).

Ngày 03/12/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Trảng Bom đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Thạch Ngọc H để điều tra. Quá trình điều tra, H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Ngày 03/12/2018 gia đình bị cáo H đã nộp lại số tiền 2.400.000 đồng mà H có được từ việc bán chiếc điện thoại di động chiếm đoạt của chị T (bút lục 121).

- Xử lý vật chứng: Ngày 15/01/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Hà Thị Hoài T chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 66V1-346.15 do ông Hồ Văn T đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Ông Hồ Văn T khẳng định ông chỉ đứng tên dùm cho chị Thạch Thị N nên đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Thạch Thị N (em ruột của H). H mượn xe của chị N sau đó tự ý sử dụng vào việc phạm tội chị N không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho chị N.

- Về dân sự: Chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Đối với số tiền 2.400.000 đồng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho anh Nguyễn Thanh P, anh Phong đã nhận lại và không có yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKS-TB ngày 25/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố bị cáo: Thạch Ngọc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo Thạch Ngọc H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015. Về tình tiết tăng nặng: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nên chưa gây thiệt hại, quá trình điều tra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo: Từ 04 tháng đến 06 tháng tù.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 66V1-346.15 do ông Hồ Văn T đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Ông Hồ Văn T khẳng định ông chỉ đứng tên dùm cho chị Thạch Thị N nên đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Thạch Thị N (em ruột của H). H mượn xe của chị N sau đó tự ý sử dụng vào việc phạm tội chị N không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho chị N.

- Về dân sự: Chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự (bút lục 102-103).

Đối với số tiền 2.400.000 đồng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho anh Nguyễn Thanh P, anh P đã nhận lại và không có yêu cầu gì khác.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo H không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, xét đã có đủ cơ sở để xác định: Vào ngày 22/11/2018 ở ấp P S, xã BS, huyện T B, tỉnh Đồng Nai, Thạch Ngọc H đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của chị Hà Thị Hoài T chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro có trị giá là 3.800.000 đồng (Ba triệu tám trăm ngàn đồng). Do đó, đã có đủ căn cứ kết luận hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản’’ được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ Luật Hình sự 2015.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của chị Hà Thị Hoài T được pháp luật bảo vệ. Vì vậy cần xử phạt bị cáo với mức án đủ nghiêm nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và cũng để răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Xét nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho người bị hại là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo khi lượng hình.

[5]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6]. Xử lý vật chứng:

Ngày 15/01/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho chị Hà Thị Hoài T chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro, phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 66V1-346.15 do ông Hồ Văn T đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Ông Hồ Văn T khẳng định ông chỉ đứng tên dùm cho chị Thạch Thị N nên đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Thạch Thị N (em ruột của H). H mượn xe của chị N sau đó tự ý sử dụng vào việc phạm tội chị N không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho chị N là phù hợp.

[7]. Về dân sự: Chị Hà Thị Hoài T đã nhận lại tài sản, anh P đã nhận lại số tiền 2.400.000đ, không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra xem xét.

[8]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm i, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Tuyên bố bị cáo Thạch Ngọc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Xử phạt bị cáo Thạch Ngọc H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại tạm giam chấp hành hình phạt tù nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giam trước đó (từ ngày 24/11/2018 đến ngày 03/12/2018).

2. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Thạch Ngọc H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày. Người có mặt thời hạn tính từ ngày tuyên án, người vắng mặt thời hạn tính từ ngày nhận bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:23/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về