Bản án 23/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 25/02/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 25 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 280/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 253/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2018, quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2018/HSST-QĐ ngày 27 tháng 12 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số: 05/2019/HSST-QĐ ngày 26 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1996, tại: Rạch Giá, Kiên Giang. Nơi cư trú: số 05 đường T, khu phố 3, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn V và bà Nguyễn Thị P; có vợ tên Trần Thị Bé T.

Tiền án, tiền sự: Chưa;

- Ngày 22-6-2018 có hành vi cố ý gây thương tích, ngày 23-6-2018 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố R đầu thú và bị tạm giữ. Ngày 26-6- 2018 bị tạm giam theo lệnh số 63/LTG-CSĐT ngày 26-6-2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố R. Đến ngày 19-11-2018, được thay thế biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh theo quyết định số 19/QĐ-VKSTPRG ngày 19-11- 2018 của Viện trưởng – Viện kiểm sát nhân dân thành phố R. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại: số 05 đường T, khu phố 3, phường RS, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

- Người bị hại:

Trần Văn V, sinh năm: 1987 (có mặt).

Đa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.

- Người làm chứng:

1. Lê Văn B, sinh năm: 1981 (có mặt).

Đa chỉ: số 243 đường N, khu phố 2, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

2. Lê Văn V, sinh năm: 1969 (có mặt)

Địa chỉ: số 5 đường T, khu phố 3, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

3. Nguyễn Ngọc T, sinh năm: 1991 (vắng mặt)

Địa chỉ: tổ 22 ấp P, xã M, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

4. Nguyễn Hoàng Tử, sinh năm: 1994 (vắng mặt)

Địa chỉ: tổ 22 ấp P, xã M, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

5. Văng Văn T, sinh năm: 1985 (vắng mặt)

Địa chỉ: xã T, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

6. Huỳnh Thị M, sinh năm: 1960 (có mặt)

Địa chỉ: số 115 đường N, khu phố 2, phường RS, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

7. Trần Thanh S, sinh năm: 1964 (vắng mặt)

Địa chỉ: số 135/8/9 đường N, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

8. Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1980 (vắng mặt)

Địa chỉ: số 153 đường N, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

9. Thái Thị U, sinh năm: 1960 (vắng mặt)

Địa chỉ: số 151 đường N, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

10. Lê Thị Lệ Q, sinh năm: 1978 (vắng mặt)

Địa chỉ: số 172 đường U, khu phố 1, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

11. Huỳnh Thị Phương C, sinh năm: 1976 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp 2, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 45 phút ngày 22-6-2018, Lê Văn T điều khiển xe mô tô 68M6-3529 đi đến bến đò R thuộc phường R, thành phố R để chở đồ thuê cho khách. Khi Lê Văn T đến bến đò thì đậu xe tại đường dẫn xuống bến đò thì Lê Văn T, cùng ông Lê Văn V là cha ruột của Lê Văn T và Lê Văn B (anh họ của T) xảy ra cự cãi và dẫn đến đánh nhau với Trần Văn V, Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Ngọc T, Văng Văn T là những người làm công cho xưởng cán tole “Nguyên Phát” trên đường C đang chuyển tole xuống bến đò chuyển về miệt thứ. Trong lúc đánh nhau, V nhặt 02 vỏ chai bia Sài Gòn đỏ có sẵn tại hiện trường đập vào nhau cho bể chai, và cầm vỏ chai bia bị bể đâm trúng ngón tay trỏ của bàn tay phải và đầu gối chân phải của T chảy máu. Lê Văn T và Lê Văn B nhặt vỏ chai bia Sài Gòn đỏ có sẵn tại hiện trường ném thẳng về phía nhóm của Trần Văn V, Lê Văn T ném trúng vào vùng chẩm trái của Trần Văn V bị chảy máu và Nguyễn Hoàng T bị Lê Văn T ném trúng vào phần đầu phía sau bị thương tích nhẹ, Lê Văn B ném vỏ chai bia nhưng không trúng ai, lúc này những người xung quanh can ngăn nên không đánh nhau nữa.

Sau đó Lê Văn T chạy xe về nhà tại số 05 đường T, khu phố 3, phường R thay đồ và tiếp tục dùng xe 68M6-3529 chạy ra bến đò để chở hàng. Khi Lê Văn T chạy đến đường N thì nhìn thấy Trần Văn V, Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Ngọc T đang đi bộ trên đường N ra đường C thuộc phường R. Lê Văn T liền đậu xe trước nhà bà Huỳnh Thị M tại số 115 đường N, phường R, thành phố R chạy vào lấy 01 cây búa cán bằng gỗ, có lưỡi sắt bén bằng kim loại dài khoảng 40cm (búa dùng chẻ củi) chạy ra trước nhà bà M thì gặp bạn Thái Minh T, Thái Minh T biết Lê Văn T cầm búa chém nhóm Trần Văn V nên Thái Minh T liền lên xe của Lê Văn T chạy theo giúp Lê Văn T đuổi chém nhóm của Trần Văn Vũ. Nguyễn Hoàng T và Nguyễn Ngọc T chạy thoát, riêng Trần Văn V chạy vào quán cà phê tại số 151 đường N, phường R, thành phố R của bà Thái Thị U thì Lê Văn T đuổi tới và dùng búa chém vào vùng cùng cụt bên trái của Trần Văn V một nhát gây thương tích và Trần Văn V bị vấp ngã té ngữa trên ghế đá thì bị Lê Văn T chém liên tiếp nhiều nhát vào chân phải, tay phải và tay trái của Trần Văn V, liền lúc này, Thái Minh T dựng xe của Lê Văn T dưới lòng đường và chạy đến vị trí của Trần Văn V dùng tay phải chộp lấy 01 cái ly thủy tinh có quai đang để trên bàn nước trong quán cà phê đánh từ trên xuống trúng vào mắt phải của Trần Văn V một nhát làm bể ly nên miễng ly thủy tinh văng trúng vào vùng trán thái dương phải của Trần Văn V gây thương tích. Sau khi gây thương tích cho Trần Văn V xong, Thái Minh T dùng xe chở Lê Văn T đi uống cà phê, trên đường đi Lê Văn T đã ném bỏ cây búa. Riêng Trần Văn V sau khi bị thương được những người xung quanh đưa đi bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang cấp cứu, ngày 23-6-2018 Trần Văn V có đơn yêu cầu khởi tố vụ án và giám định thương tích, đến ngày 25-6-2018, Trần Văn V xuất viện. Đến 13 giờ ngày 23-6-2018, Lê Văn T đến Công an phường R đầu thú, còn Thái Minh T bỏ trốn đến nay.

Ngày 26-6-2018 và ngày 10-9-2018, Lê Văn T và Thái Minh T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố R khởi tố để điều tra.

Tình tiết tăng nặng: không có tình tiết tăng nặng, về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường xong cho người bị hại; bị hại Trần Văn V làm đơn bãi nại cho Lê Văn T.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

- 01 (một) cây búa bằng gỗ, có lưỡi sắc bén bằng kim loại dài khoảng 40cm (búa dùng chẻ củi), sau khi gây thương tích cho Trần Văn V, Lê Văn T đã ném bỏ, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được.

- 01 (một) cái ly thủy tinh (đã bị vỡ) Thái Minh T dùng gây thương tích cho Trần Văn V, sau đó các mãnh vỡ đã được bà Thái Thị U quét dọn bỏ vào thùng rác, xe rác đã lấy đi, hiện không thu hồi được.

- 01 (một) đoạn camera an ninh tại nhà của ông Trần Dũ D đã được lưu vào 01 đĩa DVD, đã lưu vào hồ sơ vụ án.

* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 446/KL-PY ngày 23-8-2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang kết luận thương tích của Trần Văn V như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo vùng trán – thái dương phải và ngón 1 tay phải.

- Nhiều sẹo sơ cứng vùng cùng cụt bên trái, tay phải, tay trái và chân phải.

- Mắt phải mù (thị lực sáng tối: +).

- Gãy (đứt) xương ghe và xương chêm trong bàn tay phải. Hiện tại xương liền tốt.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 53% (năm mươi ba phần trăm).

3. Vật gây thương tích:

- Sẹo vùng trán – thái dương phải và mắt phải do vật tày có góc, cạnh gây nên.

- Thương tích tay phải, tay trái, chân phải và vùng cùng cụt bên trái do vật sắc gây nên (bút lục số 39, 40, 41).

* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 519/KL-PY ngày 08-10-2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang kết luận thương tích (bổ sung) của Trần Văn V như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo mền vùng chẩm trái.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên ở:

- Vùng trán – thái dương phải (04 vết) là 07% (bảy phần trăm).

- Mắt phải là: 41% (bốn mươi mốt phần trăm).

- Tay phải là (4 vết): 03% (ba phần trăm).

- Chân phải là (6 vết): 15% (mười lăm phần trăm).

- Tay trái là: 06% (sáu phần trăm).

3. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại vùng chẩm trái là 01% (một phần trăm).

4. Vật gây thương tích: Thương tích vùng chẩm trái do vật tày có góc, cạnh gây nên (bút lục số 43, 44, 45, 46).

* Phần dân sự: Bị cáo Lê Văn T tác động ông Lê Văn V là cha của bị cáo bồi thường chi phí điêu trị và các chi phí khác cho Trần Văn V tổng cộng 155.470.000 đồng (một trăm năm mươi lăm triệu, bốn trăm bảy mươi nghìn đồng). Trần Văn V đã nhận đủ tiền bồi thường, hiện tại không yêu cầu gì khác và đã làm đơn xin bãi nại cho Lê Văn T. Ông Lê Văn V đã bồi thường chi phí điều trị thương tích cho Nguyễn Hoàng T số tiền là 1.600.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 221/CT–VKSTPRG ngày 19-11-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội Cố ý gây thương tích”, theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn T khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Văn T về tội “Cố ý gây thương tích”. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì mâu thuẩn nhỏ trong việc vẫn chuyển hàng hóa xuống bến tàu giữa bị cáo và bị hại mà bị cáo không kiềm chế được bản thân, bị cáo dùng búa gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ thương tích là 53%. Bị cáo thực hiện tội phạm với thái độ hung hăng. Vì vậy, nên cần xử lý nghiêm bị cáo để răn đe. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, bản thân là người chưa có tiền án, tiền sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b và s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T – mức án từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù.

Về phần dân sự: sau khi vụ án xảy ra, bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí điều trị và các khoản chi phí hợp lý khác với tổng số tiền là 155.470.000 đồng (một trăm năm mươi lăm triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng). Bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) cây búa bằng gỗ, có lưỡi sắc bén bằng kim loại dài khoảng 40cm sau khi gây án, bị cáo Lê Văn T đã ném bỏ, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không được.

- 01 (một) cái ly thủy tinh (đã bị vỡ) Thái Minh T dùng gây thương tích cho Trần Văn Vũ, các mãnh vỡ đã được bà Thái Thị U quét dọn bỏ vào thùng rác không thu hồi được.

- 01 (một) đoạn camera an ninh tại nhà của ông Trần Dũ D đã lưu vào hồ sơ vụ án.

- Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo nhận thấy hành vi phạm tội của mình là sai trái và vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Ý kiến bị hại: xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên có sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố R, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đã phù hợp với nội dung cáo trạng, kết luận điều tra, lời khai người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Lẽ ra, bị cáo tìm cách giải quyết khác êm đẹp hơn nhằm tránh chuyện đáng tiếc có thể xảy ra khi không kiềm chế được bản thân mới đúng. Trái lại, bị cáo lại chọn cách giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người bị hại, còn gây căm phẫn, bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã gây nên. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử lý bị cáo mức án tương xứng với tính chất hậu quả mà hành vi bị cáo đã gây ra, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận hành vi của bị cáo Lê Văn T đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.

Vin kiểm sát nhân dân thành phố R, truy tố bị cáo theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện thỏa thuận bồi thường toàn bộ chi phí điều trị và các khoản chi phí hợp lý khác cho bị hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là phù hợp.

Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được rằng, sức khỏe của công dân là vốn quý, luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ bất kỳ ai có hành vi xâm phạm trái phép đều bị xử lý nghiêm minh.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là phù hợp như nhận định của Hội đồng xét xử.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ án xảy ra, bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí điều trị và các khoản chi phí hợp lý khác với tổng số tiền là 155.470.000 đồng (một trăm năm mươi lăm triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng). Bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) cây búa bằng gỗ, có lưỡi sắc bén bằng kim loại dài khoản 40 cm sau khi gây án, bị cáo Lê Văn T đã ném bỏ, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không được.

- 01 (một) cái ly thủy tinh (đã bị vở) Thái Minh T dùng gây thương tích cho Trần Văn V, các mãnh vỡ đã được bà Thái Thị U quét dọn bỏ vào thùng rác không thu hồi được.

- 01 (một) đoạn camera an ninh tại nhà ông Trần Dũ D đã lưu vào hồ sơ vụ án. [7] Các vấn đề khác trong vụ án: Đối với Thái Minh T sau khi gây án đã bỏ trốn Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đi với thương tích của Lê Văn T bị Trần Văn Vũ dùng võ chai bia Sài Gòn đỏ bị vỡ đâm trúng ngón tay trỏ của bàn tay phải và đầu gối chân phải, Lê Văn T không yêu cầu khởi tố và không yêu cầu gì khác.

Đi với thương tích của Nguyễn Hoàng T bị Lê Văn T dùng võ chai bia ném trúng phần đầu phía sau bị thương tích nhẹ, Tử đã nhận tiền bồi thường và không yêu cầu khởi tố và không yêu cầu gì khác.

Đi với Lê Văn V, Lê Văn B, Trần Văn V, Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Ngọc T, Văng Văn T có hành vi đánh nhau gây mất an ninh trật tự, đề nghị Cơ quan điều tra xử lý hành chính theo quy định.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2, Điều 135, khoản 2 Điều 136; Điều 106; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-6-2018 đến ngày 19-11-2018.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyn kháng cáo: Báo cho bị cáo, người bị hại, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25-02-2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về