Bản án 23/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH  NGHỆ  AN

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 24/04/20 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 04 năm 2019, tạị Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 25/2019/TLST-HS, ngày 25 tháng 03 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2019/QĐXXST-HS ngày 08/ 04 /2019 đối với bị cáo: Cao Văn T: Sinh năm 1985.

Trú tại: Xóm K, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt nam, Dân tộc: Thổ, Tôn giáo: Không. Giới tính: Nam.

Trình độ văn hóa: 8/12, Nghề nghiệp lao động tự do.

Con ông: Cao Hữu T và con bà Cao Thị T.

Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29 tháng 01 năm 2019. Có mặt tại phiên tòa.

Ngưi làm chứng: Chị Phạm Thục K: Sinh năm 1993. Vắng mặt.

Trú tại: Bản N, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nguyễn Văn V: Sinh năm 1997. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm B, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nguyễn Thị H: Sinh năm 1991. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm 14, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ, ngày 29 tháng 01 năm 2019, trong khi tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng trọ số 2, nhà trọ Hưng D thuộc xóm T, xã T, huyện Q, Công an huyện Q phát hiện, bắt quả tang đối tượng Cao Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng khối lượng ma túy (hê rôin) thu giữ của Cao Văn T là 0,125 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 343/KL-PC54 ngày 01/ 02 /2019 của phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Hai mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Cao Văn T gửi tới giám định là ma túy (Hê rô in). Số chất bột nén màu trắng thu giữ của Cao Văn T có tổng khối lượng là 0,125 gam.

Bản cáo trạng số: 28/CT-VKS-HS ngày 21/ 03 /2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Cao Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Cao Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249,điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Cao Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá được niêm phong và 03 phong bì thư đang niêm phong ma túy thu của bị cáo Cao Văn T.

Án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về việc “ Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Cao Văn T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định Bị cáo Cao Văn T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[ 1 ]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng.

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 2 ]. Những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội.

Lời khai của bị cáo, người làm chứng, kết luận số: 343/KL- PC54 ngày 01/2/2019 của phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản mở niêm phong lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau; Vào khoảng 16 giờ, ngày 29 tháng 01 năm 2019, Cao Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,125 gam ma túy (hê rô in). Quá trình điều tra Cao Văn T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo Cao Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

[ 3 ]. Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Cao Văn T cố ý thực hiện tội phạm “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” là tội phạm nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo Cao Văn T là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Hành vi này làm mất ổn định trật tự tại địa bàn và phát sinh nhiều tệ nạn xã hội.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Cao Văn T không có tiền án, tiền sự, có nhân thân xấu. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Do vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nhưng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để giáo dục và răn đe phòng ngừa chung.

[ 4 ]. Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và 03 phong bì thư được niêm phong số ma túy thu giữ của bị cáo Cao Văn T và thu tại phòng trọ của bị cáo T.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng” do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo Cao Văn T là một đối tượng nghiện, không có tài sản gì. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đi với người đàn ông mua hộ ma túy cho bị cáo Cao Văn T không xác minh được họ tên, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Đi với gói ma túy dạng đá thu giữ trong chiếc hộp đựng đồng hồ để trên giường ngủ của Cao Văn T hiện tại chưa xác định được của ai nên Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra xác minh khi có kết quả xử lý sau.

[ 5 ] Về án phí. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Cao Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Cao Văn T: 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/01/2019.

- Áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và 03 phong bì thư được niêm phong số ma túy thu giữ của bị cáo Cao Văn T và thu tại phòng trọ của bị cáo T, chi tiết thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 25 tháng 03 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự của huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Cao Văn T phải chịu án phí HSST là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về