TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Z, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 20/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Z mở phiên tòa công khai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/HSST ngày 15 tháng 01 năm 2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2019/QĐXXST - HS ngày 31 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. MAI THANH P (Đen) - Sinh năm 1991, tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: 14/47 HĐ, phường PS, thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: không. Trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mai Văn Th và bà Nguyễn Thị Ngọc T. Tiền án: không;
* Tiền sự: Ngày 02/6/2016 bị Công an thành phố Z ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đồng về hành vi Trộm cắp tài sản..
* Nhân thân: Ngày 13/5/2008 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Z Quyết định về việc: “đưa vào trường giáo dưỡng đối với Mai Thanh P” thời hạn 24 tháng về hành vi Trộm cắp tài sản. (Chấp hành xong quyết định ngày 14/5/2010).
Bị bắt tạm giữ từ ngày 22/7/2016 đến ngày 25/7/2016 được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị bắt tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến ngày 20/7/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 10/10/2018 bị bắt tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt.
2. NGUYỄN MẠNH T (Cu Anh) - Sinh năm 1996, tại Khánh Hòa; Nơi ĐKNKTT: 03 hẻm NT, phường PT, thành phố Z; nghề nghiệp: không. Trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị C; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ theo quyết định truy nã từ ngày 03/11/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt.
* Bị hại:
- Anh Nguyễn Hải H, sinh năm 1988; Nơi cư trú: 36/10 phường P L, TP. Z, tỉnh Khánh Hòa.
- Chị Võ Trương Anh T, sinh năm 1995; Nơi cư trú: 105B N, phường PH, TP. Z, tỉnh Khánh Hòa.
- Anh Võ Khánh Hoàng H, sinh năm 1987; nơi cư trú: thôn XĐ, xã Dx, huyện DK, tỉnh Khánh Hòa.
- Anh Nguyễn Việt Q, sinh năm 1984; Nơi cư trú: 16/4 đường số 2, khu Mn, phường PT, thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa.
- Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1974; Nơi cư trú: 20/1 ĐP, phường PL, thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Anh Bùi Sơn T, sinh năm 1989; Nơi cư trú: 87 BĐ, phường PL, TP. Z, tỉnh Khánh Hòa.
- Chị Nguyễn Nhật M, sinh năm 1992; Nơi cư trú: TN, xã DT, thị trấn DK, tỉnh Khánh Hòa.
- Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967; Nơi cư trú: thôn PĐ, xã PĐ, TP. Z, tỉnh Khánh Hòa.
- Anh Trương Quang T, sinh năm 1992; Nơi cư trú: thôn PH, xã P Đ, TP. Z, tỉnh Khánh Hòa.
* Người làm chứng:
- Ông Lê Tấn S, sinh năm 1963; Nơi cư trú: 31 PX, phường VH, TP Z, tỉnh Khánh Hòa.
- Anh Trần Ngọc Q, sinh năm 1996; Nơi cư trú: 05 NV, phường PS, thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa.
(Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2016 đến tháng 10 năm 2018, Mai Thanh P và Nguyễn Mạnh T đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 1 giờ 30 phút ngày 22 tháng 7 năm 2016, Nguyễn Mạnh T điều khiển xe máy hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 79D1-232.47 chở Mai Thanh P đến quán bida Asia tại số 105B đường N, phường PH, thành phố Z để tìm bạn nhưng không gặp. Sau đó, P đi vào dãy phòng trọ phía sau quán bida phát hiện một xe đạp điện hiệu Asama của chị Võ Trương Anh T là nhân viên quán bida không có người trông giữ. Thấy vậy, P đến chỗ xe đạp điện, thấy xe đã bị khóa bánh trước nên P nhấc bánh trước xe đạp điện lên và dắt chiếc xe ra đường. Khi đến vị trí T đang đứng chờ thì T hỏi xe đạp điện của ai, P nói với T xe mới lấy trộm trong dãy phòng trọ. P cùng với T khiêng xe đạp điện đặt lên xe máy để chở đi nhưng do không điều khiển được xe máy nên cả hai đặt xe đạp điện xuống. Cùng lúc này, anh Lê Tấn S là bảo vệ quán bida Asia phát hiện P và T nên đưa cả hai cùng tang vật đến Công an phường PH.
Tại biên bản định giá tài sản số 296/TCKH ngày 29 tháng 7 năm 2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Một xe đạp điện hiệu Asama trị giá 3.060.000 đồng.
Vụ thứ hai: Vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 05 tháng 12 năm 2016, đối tượng tên T (không xác minh được nhân thân lai lịch) điều khiển xe máy hiệu Attila màu trắng (không xác định được biển kiểm soát) chở Mai Thanh P đi trên đường Lý Nam Đế, thành phố Z. Khi đi đến trước nhà 111 đường Lý Nam Đế, phường PL, thành phố Z thì P phát hiện cửa trên lầu một mở. P liền nói với T dừng xe lại để P trèo lên lầu trộm cắp tài sản. P trèo lên lầu nhưng chưa trộm cắp được tài sản thì bị anh Võ Khánh Hoàng H phát hiện và bắt giữ P. Toàn thấy vậy liền bỏ chạy thoát.
Vụ thứ ba: Vào khoảng 01 giờ ngày 11 tháng 01 năm 2018, Mai Thanh P điều khiển điều khiển xe máy hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 79D1 – 201.32 đi trộm cắp tài sản. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày, khi đến trước nhà 36/10 hẻm PL, phường P L, thành phố Z do anh Nguyễn Hải H làm chủ, quan sát thấy cửa khép và ổ khóa móc phía trong chưa bấm chốt khóa lại, P liền mở móc khóa đột nhập vào trong nhà trộm cắp được một máy tính xách tay hiệu HP14, một điện thoại di động hiệu Iphone 5S, một điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus, một đồng hồ hiệu Patak philipe. Sau đó, Phai mang máy tính xách tay hiệu HP HP14, một điện thoại di động hiệu Iphone 5S, một điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus bán tại tiệm điện thoại T mobile số 958 đường Lê Hồng Phong, phường PL, thành phố Z do anh Bùi Sơn T làm chủ với giá 5.500.000đồng. Số tiền bán tài sản trộm cắp được, P sử dụng cho cá nhân hết 4.500.000đồng, còn 1.000.000 đồng P quay lại tiệm điện thoại Sơn T mobile chuộc lại máy tính xách tay hiệu HP14. Chiếc đồng hồ Patek Philipe, P cất giấu tại nhà.
Khoảng 9 giờ 00 phút ngày 11 tháng 01 năm 2018, Mai Thanh P bị Công an phường phát hiện đưa về trụ sở làm việc. Tại cơ quan Công an P đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như trên: một máy tính xách tay hiệu HP14 trị giá 5.931.000đồng, một điện thoại di động hiệu Iphone 5S trị giá 2.912.000đồng, một điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus trị giá 13.993.000 đồng, một đồng hồ hiệu Patek Philipe không đủ thông tin để định giá. Tổng giá trị tài sản trộm cắp: 22.836.000đồng.
Vụ thứ tư: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03 tháng 10 năm 2018, Mai Thanh P điều khiển xe máy hiệu Attila biển kiểm soát 79N1 – 301.11 chở Nguyễn Mạnh T đi trên đường Đông Phước, phường PL, thành phố Z. Khi đến trước nhà số 81 đường Đông Phước, phường PL, thành phố Z thì T phát hiện một xe máy hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 79H1 – 124.68 của chị Nguyễn Thị Thu H dựng trước nhà, không có người trông giữ, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa. Thấy vậy, T nói với P dừng xe lại để T đến lấy trộm chiếc xe máy này, P đứng ngoài cảnh giới. Sau khi T lấy trộm được chiếc xe máy, P và T mang bán cho một đối tượng tên T (chưa xác định nhân thân lai lịch) với giá 3.500.000đồng. Số tiền này cả hai tiêu xài hết.
Sau khi bị mất trộm tài sản, chị H đã đến cơ quan Công an trình báo, đăng tin mình bị mất xe máy và đưa hình ảnh hai đối tượng lấy trộm xe máy (do camerra an ninh nhà chị H quay chụp lại được) lên mạng Internet. P lên mạng xã hội thì thấy hình ảnh của mình trộm cắp tài sản bị quay chụp được nên đã liên lạc với T lấy lại xe máy và liên lạc với chị H trả lại chiếc xe máy cho chị H.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 537/HDĐG ngày 18 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: một xe máy hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 79H1 – 124.68 trị giá 9.660.000đồng.
Vụ thứ năm: Vào khoảng 16 giờ ngày 09 tháng 10 năm 2018, Mai Thanh P điều khiển xe máy hiệu Attila biển kiểm soát 79N1 – 301.11 chở đối tượng L (chưa rõ lai lịch) đi đến nhà số 16/4B khu máy nước, phường PT, thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa thì thấy cửa nhà không khóa và không có người bên trong. Thấy vậy, P dựng xe lại và nói với L đứng ngoài cảnh giới còn P đi vào trong nhà trộm cắp tài sản. P đi bộ vào trong nhà và phát hiện một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J8 của anh Nguyễn Việt Q đang sạc pin. Thấy vậy, P lấy trộm chiếc điện thoại và ra chở L đi. Sau khi trộm được chiếc điện thoại, P và L đem bán cho Trương Tú T với giá 3.500.000đồng, số tiền này cả hai tiêu xài hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 534/HDĐG ngày 18 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J8 – 32GB trị giá 6.227.000đồng Cáo trạng số 35/CT-VKSNT ngày 14 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Z truy tố Mai Thanh p và Nguyễn Mạnh T về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, các bị cáo Mai Thanh P và Nguyễn Mạnh T đều thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung đã nêu trên.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Z giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai nhận của các bị cáo Mai Thanh P và Nguyễn Mạnh T tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được Hội đồng xét xử thẩm vấn công khai. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Thanh P từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; bị cáo Nguyễn Mạnh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt nên tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu. Vật chứng vụ án, án phí: đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của đương sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, đúng quy định.
[3] Về nội dung: Để có tiền sử dụng cá nhân, từ tháng 7 năm 2016 đến tháng 10 năm 2018; Mai Thanh P và Nguyễn Mạnh T đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản của người khác trên địa bàn thành phố Z. cụ thể:
Vụ 1: Khoảng 1 giờ 30 phút ngày 22 tháng 7 năm 2016, tại sân dãy phòng trọ sau quán bida Asia số 105B N, phường PH, thành phố Z, Mai Thanh P và Nguyễn Mạnh T đã trộm cắp một xe đạp điện hiệu Asama của chị Võ Trương Anh T trị giá 3.060.000đồng. (Ba triệu không trăm sáu mươi ngàn đồng).
Vụ 2: Vào khoảng 01 giờ ngày 11 tháng 01 năm 2018, tại nhà 36/10 hẻm Phước Long, phường PL, thành phố Z; Mai Thanh P đã trộm cắp của anh Nguyễn Hải H một máy tính xách tay hiệu HP14, một điện thoại di động hiệu Iphone 5S, một điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus, một đồng hồ hiệu Patek Philipe. Tổng giá trị tài sản trộm cắp: 22.836.000đồng. (Hai mươi hai triệu tám trăm ba mươi sáu ngàn đồng).
Vụ 3: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03 tháng 10 năm 2018, tại nhà số 81 đường Đông Phước, phường PL, thành phố Z, Mai Thanh P và Nguyễn Mạnh T đã trộm cắp một xe máy hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 79H1 – 124.68 của chị Nguyễn Thị Thu H trị giá 9.660.000đồng. (Chín triệu sáu trăm sáu mươi ngàn đồng) Vụ 4 : Vào khoảng 16 giờ ngày 09 tháng 10 năm 2018 tại nhà số 16/4B khu máy nước, phường PT, thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa, Mai Thanh P đã trộm cắp một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J8 – 32GB của anh Nguyễn Việt Q trị giá 6.227.000đồng. (Sáu triệu hai trăm hai mươi bảy ngàn đồng).
Như vậy, Mai Thanh P đã trộm cắp tài sản có tổng trị giá là: 41.783.000đồng (Bốn mươi mốt triệu bảy trăm tám mươi ba ngàn đồng); Nguyễn Mạnh T trộm cắp tài sản có tổng giá trị là: 12.720.000đồng (Mười hai triệu bảy trăm hai mươi ngàn đồng) Tại phiên tòa, lời khai nhận của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với tài liệu: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu và lời khai của bị hại, đại diện của họ; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Mai Thanh P và Nguyễn Mạnh t đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, Cáo trạng số 35/CT-VKSNT ngày 14 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Z, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố các bị cáo Mai Thanh P, Nguyễn Mạnh T là có căn cứ đúng người, đúng tội.
[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo:
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân; Làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vừa với vai trò thực hành và giúp sức. Hành vi phạm tội thể hiện tính táo bạo, tham lam, tư lợi và coi thường pháp luật. Đối với bị cáo Mai Thanh P ngoài hai lần thực hiện hành vi phạm tội cùng với bị cáo T, bị cáo còn thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần cùng với các đối tượng khác. Bản thân bị cáo Phai đã có một thời gian dài được giáo dục và cũng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện đạo đức, làm ăn lương thiện mà lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Đối với bị cáo Nguyễn Mạnh T, bị cáo đã cùng thực hiện hành vi phạm tội với bị cáo P hai lần; Sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã, gây khó khăn trong công tác điều tra. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội hai lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Mai Thanh P và Nguyễn Mạnh T. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo; Tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Xét vai trò tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải xử lý nghiêm khắc, áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo Mai Thanh P có nhân thân xấu, thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo, giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt nhiều hơn so với bị cáo Nguyễn Mạnh T. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Mai Thanh P nặng hơn so với bị cáo Nguyễn Mạnh T mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Đối với Bùi Sơn T, Trương Tú T khi mua tài sản không biết tài sản đó là do P và T phạm tội mà có nên không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với đối tượng T, L, T hiện không xác định nhân thân, lai lịch; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Z đang tiếp tục xác minh điều tra làm rõ, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt (toàn bộ tài sản đã trả lại cho chủ sở hữu) nên Hội đồng xét xử tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu.
[7] Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Z thu giữ:
- 01 (Một) điện thoại di động hiệu nokia 6300 là tài sản cá nhân của bị cáo Mai Thanh P nên trả lại cho bị cáo P . (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/01/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Z và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Z)
- 01 (Một) xe máy hiệu Yamaha sirius biển kiểm soát 79D1 – 20132 màu đỏ đen, số máy 5C6R020815; Số khung K0DY020807: Theo lời khai của anh Nguyễn Nhật M (BL31) thì năm 2017 anh M đã bán cho một thanh niên ở ngã ba thành DK, tỉnh Khánh Hòa với giá 12.000.000đồng; còn bị cáo Mai Thanh P thì khai chiếc xe máy trên là của đối tượng tên Tí khoảng 40 tuổi nhà ở X, phường PH, thành phố Z cho bị cáo mượn. Như vậy, chưa xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp chiếc xe máy nêu trên mà bị cáo đã sử dụng để phạm tội. Do đó, giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Z ra thông báo trong hạn một năm nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/8/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Z và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Z).
[8] Về án phí: Các bị cáo Mai Thanh P, Nguyễn Mạnh T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Mai Thanh P.
Xử phạt: Bị cáo Mai Thanh P (Đen) 02 (hai) năm tù về tội “trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 10/10/2018. (Được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 22/7/2016 đến ngày 25/7/2016; tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến ngày 20/7/2018).
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Mạnh T.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Mạnh T (Cu Anh) 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 03/11/2018.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho bị cáo Mai Thanh P: 01 (Một) điện thoại di động hiệu nokia 6300. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/01/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Z và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Z) - Giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố Z ra thông báo trong thời hạn một năm kể từ ngày thông báo công khai nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp chiếc xe máy hiệu Yamaha sirius biển kiểm soát 79D1 – 20132 màu đỏ đen, số máy 5C6R020815; Số khung K0DY020807 thì tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/8/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Z và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Z).
4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt nên Hội đồng xét xử tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu.
5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị Mai Thanh P, Nguyễn Mạnh T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; có mặt được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Bản án 23/2019/HS-ST ngày 20/02/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 23/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về