Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 23/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12/6/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2019/TLST-HNGĐ ngày 08/3/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/5/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lê Thị T - Sinh năm 1994.

Địa chỉ: Đội 7 Đồi Dùng, P, Đ, Hà Nội (Có mặt).

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L - Sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn Ngoại 1, xã G, huyện S, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 07/3/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn L đăng ký kết hôn vào ngày 11/11/2013 tại UBND xã P, huyện Đ, Hà Nội trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn vì tình cảm không còn, vợ chồng ngày càng không hợp nhau, thường xuyên cãi chửi nhau làm ảnh hưởng đến tâm lý của các con. Đến giữa năm 2016, anh L đi làm ăn xa và không còn quan tâm đến vợ con, cuối năm 2016, anh L không liên lạc gì đến vợ con, vợ chồng ly thân từ đó đến nay, chị đưa hai con về ở cùng bố mẹ đẻ. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T làm đơn xin ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị và anh L có 02 con chung tên là Nguyễn Văn Thành L, sinh ngày 27/8/2013 và Nguyễn Thị Như Q, sinh ngày 30/9/2015. Hiện chị đang trực tiếp nuôi cả hai con, nếu ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi cả hai con và không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản: Chị và anh L không có tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho anh L theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, anh L không đến Tòa án làm việc nên không có ý kiến của anh, Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng vắng mặt anh L nên chỉ tiến hành phiên họp đối với chị T và không tiến hành hòa giải được.

Tại biên bản xác minh ngày 22/3/2019, ý kiến của thôn trưởng thôn Ngoại 1, xã G cho biết: Thực tế anh L vẫn đang sinh sống tại địa phương, việc Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng anh L không có mặt đây là ý thức chấp hành pháp luật của anh L, địa phương không can thiệp được. Về nguyên nhân mâu thuẫn, trước đây là anh L không có trách nhiệm với vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Nhưng thời gian gần đây ở cơ sở không nắm được vì lý do vợ chồng anh L chị T đã sống ly thân từ cuối năm 2016 đến nay. Về con chung: Anh L và chị T có 02 con chung, nay chị T đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở.

Tại phiên tòa, chị T vẫn giữ nguyên quan điểm của chị.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Nga Sơn.

Ngày 22/5/2019, Tòa án đã mở phiên tòa xét xử nhưng anh L vắng mặtkhông có lý do nên phải hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227 BLTTDS. Tại phiên tòa hôm nay, anh L vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh L.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L đăng ký kết hôn vào ngày 11/11/2013 tại UBND xã P, huyện Đ, Hà Nội trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện là hôn nhân hợp pháp. Nhưng theo như chị T trình bày vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng ly thân từ khoảng giữa năm 2016 đến nay, không còn ràng buộc về tình cảm và kinh tế. Nay chị T kiên quyết xin ly hôn, anh L cố tình vắng mặt, không rõ quan điểm thế nào, điều đó chứng tỏ anh L không còn tha thiết quay lại để vợ chồng chung sức xây dựng gia đình hạnh phúc nữa. Vì vậy, xử cho chị T được ly hôn anh L là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Chị T và anh L có 02 con chung: Nguyễn Văn Thành L, sinh ngày 27/8/2013 và Nguyễn Thị Như Q, sinh ngày 30/9/2015. Kể từ khi chị T và anh L sống ly thân, chị T trực tiếp nuôi dưỡng hai con. Nghĩ cần tiếp tục giao hai cháu cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng để tránh xáo trộn cuộc sống của các cháu là phù hợp thực tế và quy định của pháp luật. Chấp nhận đề nghị của chị T không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản: Chị T không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật. 

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm,nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị T. Cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

* Về con: Giao cháu Nguyễn Văn Thành L, sinh ngày 27/8/2013 và Nguyễn Thị Như Q, sinh ngày 30/9/2015 cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh Nguyễn Văn L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T. Anh L có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở

* Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0005017 ngày 08/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nga Sơn. Chị T đã nộp đủ án phí DSST.

Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Văn L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:23/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về