Bản án 23/2019/DS-ST ngày 23/09/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 23/2019/DS-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20, 23/09/2019 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Lục Nam tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 79/2018/TLST-TCQSDĐ ngày 19/12/2018 về tranh chấp “Quyền sử dụng đất”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2017/QĐXX-ST ngày 11/06/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ sinh năm 1960 (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Chu Văn T sinh năm 1956 (có mặt)

Đều địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Bà Hà Thị V sinh năm 1960 (có mặt)

- Anh Chu Văn Q sinh năm 1987 (vắng mặt)

Đều địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

- UBND xã L do ông Nguyễn Văn C- Chủ tịch đại diện (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 26/11/2018, trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ trình bày: Gia đình ông sử dụng diện tích 1333m2 đất ở tại thôn T, L, L ổn định từ năm 1979, đến ngày 21/9/2011 UBND huyện L đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q720184 cho hộ gia đình ông được sử dụng diện tích 1333m2, đất ở 360m2, còn lại là đất vườn. Trong quá trình sử dụng diện tích đất trên đến khoảng năm 2009 gia đình ông đã lấn chiếm một số diện tích đất ở phía Bắc là đất đường của thôn, ở phía Tây lấn chiếm đất làng. Đến tháng 10/2014 gia đình ông được UBND huyện Lục Nam cấp đổi lại giấy chứng nhận QSDĐ. Theo giấy chứng nhận QSDĐ gia đình ông được sử dụng 1434m2 đất ở, đất vườn. Trước khi được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ và cấp đổi GCNQSDĐ gia đình ông đều có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất. Trên đơn đăng ký đều có sơ đồ thửa đất, các cạnh của thửa đất giáp ranh với các hộ liền kề đều có chữ ký của chủ hộ liền kề và được hội đồng thẩm định của xã, huyện về thẩm định. Theo sơ đồ thửa đất thể hiện trên đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất và trên giấy chứng nhận QSDĐ cấp tháng 09/2001 và cấp đổi tháng 10/2014 cạnh đất phía Đông của gia đình nhà ông tiếp giáp với gia đình nhà ông Thơm là một cạnh thẳng. Sau khi UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ và cấp đổi GCNQSDĐ ông không có thắc mắc gì và vẫn sử dụng đất ổn định từ đó. Nhưng đến đầu tháng 03/2017 vợ chồng ông đi viện không có ở nhà, ông Thơm đã xây nhà bếp và nhà vệ sinh sang đất của gia đình nhà ông khoảng trên 2m2. Khi về ông có yêu cầu ông Thơm tháo dỡ các công trình, trả lại phần đất lấn chiếm của gia đình ông. Nhưng ông Thơm không chấp nhận, ông đã gửi đơn đến UBND xã để can thiệp, UBND xã đã giải quyết nhiều lần nhưng ông Thơm không chấp nhận, nay ông đề nghị Tòa án buộc ông Thơm phải tháo dỡ các công trình nhà bếp, nhà vệ sinh trả lại đất lấn chiếm cho vợ chồng ông số diện tích đất trên.

Tại phiên tòa hôm nay ông vẫn giữ nguyên yêu cầu trên và ông đề nghị Tòa án không đưa các con ông là Nguyễn Văn Phượng, Nguyễn Thị Lượng, Nguyễn Thị Loan, Nguyễn Văn Linh vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Bị đơn ông Chu Văn Thơm trình bày trong các bản tự khai và tại phiên tòa: Tháng 09/2001 UBND huyện Lục Nam đã cấp cho gia đình ông được quyền sử dụng 1064m2 đất ở và đất vườn. Trên giấy chứng nhận QSDĐ đã thể hiện rõ sơ đồ thửa đất của gia đình ông. Trong quá trình sử dụng diện tích đất trên, đến khoảng năm 2010- 2011 ông có lấn chiếm một số diện tích đất đường đi của thôn ở phía Bắc. Đến tháng 08/2014 UBND huyện Lục Nam đã cấp đổi GCNQSDĐ cho gia đình ông được sử dụng tổng diện tích 1149,7m2, đất ở 360m2, đất trồng cây lâu năm 789,7m2. Trước khi được cấp GCNQSDĐ năm 2001 và cấp đổi năm 2014 ông đều có đơn xin đăng ký QSDĐ. Trong đơn các cạnh của đất tiếp giáp với các hộ liền kề đều có chữ ký của chủ hộ liền kề, trong đơn đều có sơ đồ thửa đất. Sau khi UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ và cấp đổi GCNQSDĐ ông không có thắc mắc gì và vẫn sử dụng đất ổn định từ đó. Đến tháng 03/2017 ông có xây dựng các công trình gồm nhà bếp, nhà vệ sinh kiên cố. Khi ông xây dựng các công trình là xây theo đúng phần đất của gia đình ông. Ông không xây trên đất của gia đình ông Đình. Nay vợ chồng ông Đình cho rằng ông xây bếp, nhà vệ sinh lấn sang đất của gia đình ông Đình trên 2m2 là không đúng, nên ông không chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông Đình. Khi ông xây 2 công trình trên, cạnh góc bếp, nhà vệ sinh ông xây thẳng theo bức tường của gia đình ông, ông xây khoảng từ năm 1998 trước khi UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông. Hiện bức tường dài khoảng 30m, cao khoảng 70cm đến 1m chạy từ phía Nam lên phía Bắc song song với cạnh đất hiện nay hai bên đang xảy ra tranh chấp.

Tại phiên tòa hôm nay ông vẫn giữ nguyên yêu cầu trên. Trong quá trình xảy ra tranh chấp ông Đình đã phá dỡ của ông một phần bức tường trên nhưng tại phiên tòa hôm nay ông không yêu cầu Tòa án giải quyết và ông đề nghị Tòa án không đưa các con ông là Chu Văn Quang, Chu Thị Quỳnh, Chu Thị Quế vào tham gia tố tụng vì đất tranh chấp trên không liên quan đến các con ông và vợ ông là bà Nguyễn Thị Chanh đã mất năm 2016.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Bà Hà Thị Vị trình bày tại phiên tòa: Bà là vợ ông Đình, chồng bà đã có bản tự khai gửi cho Tòa án, bà đồng ý với những yêu cầu trong bản tự khai của chồng bà và đồng ý toàn bộ lời trình bày của chồng bà tại phiên tòa. Bà không có ý kiến gì bổ sung.

Tại phiên tòa hôm nay bà vẫn giữ nguyên yêu cầu trên.

Anh Chu Văn Quân trình bày trong bản tự khai: Anh là con của ông Thơm, nay xảy ra tranh chấp QSDĐ giữa bố anh và gia đình ông Đình, việc bố anh quyết định như thế nào là quyền của bố anh, anh không có ý kiến gì.

Do công việc bận anh xin được vắng mặt tại các phiên họp công khai chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử vụ án.

- UBND xã Lan Mẫu do ông Nguyễn Văn Cường- Chủ tịch đại diện trình bày trong bản tù khai: Tháng 09/2001 UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Đình và hộ ông Thơm, hộ ông Đình được quyền sử dụng 1333m2, hộ ông Thơm được quyền sử dụng 1064m2. Trong quá trình sử dụng đất, ông Đình đã lấn chiếm một phần đường đi của thôn ở phía Bắc và một phần đất làng ở phía Tây, còn ông Thơm đã lấn chiếm một phần đất ở phía Bắc. Đến tháng 10/2014 UBND huyện Lục Nam đã cấp đổi GCNQSDĐ cho hộ ông Đình được quyền sử dụng 1434m2 đất, trong đó có 360m2 đất ở, 1064m2 đất lâu dài. Đến tháng 8/2014 hộ ông Thơm được cấp đổi lại GCNQSDĐ được quyền sử dụng 1149,7m2, đất ở 360m2, đất lâu dài 789,7m2. Sau khi cấp GCNQSDĐ, 2 hộ không có thắc mắc gì kể cả khi cấp đổi lại GCNQSDĐ. Khi xảy ra tranh chấp QSDĐ UBND xã đã tiến hành giải quyết và hòa giải nhiều lần nhưng các hộ đều không thống nhất được. Nay Tòa án tiến hành giải quyết, đề nghị Tòa án căn cứ vào GCNQSDĐ của các hộ đã được cấp để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Trong quá trình các hộ sử dụng đất các hộ đã lấn chiếm một số diện tích đất, đến khi cấp đổi lại GCNQSDĐ các hộ đã được cấp sử dụng hợp pháp. Nay địa phương không có ý kiến gì. Còn diện tích nhà ông Đình khi đo thực tế tổng là 1460m2 theo GCNQSDĐ cấp đổi là 1434m2, thừa 26m2 đất. Ông Chu Văn Thơm thực tế hiện sử dụng là 1144,7 m2 theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cấp đổi năm 2014 được quyền sử dụng 1149,7 m2, thiếu 5 m2 so với giấy chứng nhận được cấp. Diện tích thiếu thừa, sai lệch số liệu diện tích của các hộ là do sai số trong 02 lần đo đạc, không liên quan gì đến cạnh đất hai bên đang tranh chấp. Diện tích đất thừa của gia đình ông Đình nằm trong diện tích đất UBND huyện đã cấp đổi, địa phương không có ý kiến gì.

Do công việc bận ông xin được vắng mặt tại các phiên họp công khai chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Đề nghị HĐXX: áp dụng các Điều 26, Điều 147, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 BLTTDS, Điều 175 Bộ luật Dân sự, Điều 5, Điều 166 Luật đất đai năm 2013, Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH14 của ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

- Xác nhận diện tích đất 2,589m2 trị giá 569,580đ nằm trong tổng diện tích 1434m2 đất ở, đất vườn đã được UBND huyện Lục Nam cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Đình, bà Hà Thị Vị ở thôn Trung An, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang theo Quyết định số 1713/QĐ-UBND ngày 31/10/2014 thuộc quyền sử dụng của ông Đình và bà Vị là thuộc quyền sử dụng của ông Đình và bà Vị.

- Giao cho ông Chu Văn Thơm được quyền sử dụng diện tích đất 2,58m2 trị giá 569,500đ (diện tích đất chiếm là hình tam giác, hình thang) thuộc thôn Trung An, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Cụ thể: nhà vệ sinh, nhà bếp lấn chiếm có các cạnh: Cạnh phía Bắc tính từ điểm A đến điểm B, dài 0,41m, cạnh phía Tây tiếp giáp đất gia đình ông Đình tính từ điểm A kéo đến điểm D, từ điểm D kéo đến điểm F dài (3,83m + 3,05m), cạnh phía Đông tính từ điểm E đến điểm C, từ điểm L kéo đến điểm B giáp đất ông Thơm dài (3,06 m + 3,84m), cụ thể:

Phần móng nhà bếp, móng nhà vệ sinh lấn chiếm, phía Bắc tính từ điểm A đến điểm L giáp đất nhà ông Đình dài 0,04m, cạnh phía Tây giáp đất ông Đình kéo từ điểm L đến điểm G, từ điểm G kéo đến điểm F dài (3,83 m+ 3,05 m), cạnh phía Nam giáp đất ông Đình tính từ điểm F kéo đến điểm E dài 0,12m, cạnh phía Đông tiếp giáp với nhà bếp và nhà vệ sinh của ông Thơm, tính từ điểm F kéo đến điểm D, từ điểm D kéo đến điểm A dài (3,05m + 3,83m). Nhưng ông Chu Văn Thơm phải có trách nhiệm thanh toán trả vợ chồng ông Nguyễn Văn Đình, bà Hà Thị Vị số tiền 569,500đ (Năm trăm sáu mươi chín nghìn lăm trăm tám mươi đồng) (có sơ đồ kèm theo)

Buộc ông Chu Văn Thơm phải có trách nhiệm thanh toán trả cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Đình, bà Hà Thị Vị tiền trích đo thửa đất, tiền định giá tài sản, tiền thẩm định, tổng 11.853.000đ (Mười một triệu tám trăm lăm mươi ba nghìn đồng).

Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm vấn tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019 ngày 11/6/2019, quyết định hoãn phiên tòa ngày 28/6/2019, quyết định hoãn phiên tòa ngày 26/7/2019, quyết định hoãn phiên tòa ngày 26/8/2019, thông báo về việc thay đổi thời gian mở lại phiên tòa xét xử ngày 23/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, Tòa án đã gửi cho các đương sự theo đúng quy định của BLTTDS. Nhưng tại phiên tòa ngày 20/9/2019 UBND xã, anh Quân có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 BLTTDS, nên HĐXX đưa vụ án ra xét xử.

[2] Về nội dung vụ án: Theo GCNQSDĐ được UBND huyện Lục Nam cấp ngày 21/9/2001 cho hộ ông Nguyễn Văn Đình được quyền sử dụng tổng diện tích 1333m2, đất ở 360m2, đất lâu dài 973m2, diện tích đất này gia đình ông sử dụng từ năm 1979. Hộ ông Chu Văn Thơm được UBND huyện cấp GCNQSDĐ ngày 21/9/2001 là 1064m2, đất ở 360m2, đất vườn 704m2 đều ở thôn Trung An, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam. Ngày 31/10/2014 ông Nguyễn Văn Đình, bà Hà Thị Vị được UBND huyện Lục Nam cấp đổi lại GCNQSDĐ được quyền sử dụng đất ở, đất vườn là 1434m2. Tháng 08/2014 ông Chu Văn Thơm, bà Nguyễn Thị Chanh được UBND huyện Lục Nam cấp đổi lại GCNQSDĐ được quyền sử dụng đất ở, đất vườn, tổng diện tích là 1149,7m2. Từ khi được cấp GCNQSDĐ và cấp đổi GCNQSDĐ, vợ chồng ông Đình, bà Vị vẫn sử dụng ổn định không có tranh chấp và thắc mắc gì. Đến ngày 26/11/2018 ông Đình có đơn đề nghị Tòa án xem xét việc gia đình ông Thơm đã xây dựng các công trình nhà bếp, nhà vệ sinh lấn sang phần đất của gia đình nhà ông khoảng trên 2m2, buộc ông Thơm tháo dỡ các công trình trên để trả lại đất cho gia đình nhà ông. Phía ông Thơm không nhất trí với yêu cầu của vợ chồng ông Đình. Ông Thơm cho rằng tháng 03/2017 ông xây dựng các công trình bếp, nhà vệ sinh trên đúng phần đất của gia đình nhà ông đã được UBND huyện cấp GCNQSDĐ.

[3] Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, HĐXX nhận định: Tháng 09/2001 gia đình ông Đình được UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ sử dụng tổng diện tích 1333m2 đất ở và đất vườn. Hộ ông Thơm được UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ sử dụng tổng diện tích 1064m2 đất ở và đất vườn. Đến tháng 10/2014 ông Đình, bà Vị được UBND huyện Lục Nam cấp đổi lại GCNQSDĐ tổng diện tích sử dụng là 1434m2 đất ở và đất vườn. Đến tháng 08/2014 ông Thơm, bà Chanh (vợ ông Thơm- đã mất) được UBND huyện cấp đổi lại GCNQSDĐ tổng diện tích sử dụng là 1149,7m2 đất ở và đất vườn. Sau khi các hộ được cấp GCNQSDĐ và cấp đổi lại GCNQSDĐ, các hộ sử dụng ổn định, không có thắc mắc gì, các hộ cấp đổi lại GCNQSDĐ đều có diện tích thừa so với diện tích đất được UBND huyện Lục Nam cấp ban đầu, cụ thể gia đình ông Đình được cấp thêm là 101m2 (1434m2- 1333m2), hộ ông Thơm được cấp thêm 85,7m2 (1149,7m2 -1064m2). Diện tích được cấp thêm, ông Đình và ông Thơm đều thừa nhận trong quá trình sử dụng đất các hộ đều lấn chiếm đất đường của thôn làm đường đi ở phía Bắc, không liên quan gì đến cạnh tiếp giáp đất của ông Đình và ông Thơm đang xảy ra tranh chấp. Trên cơ sở ý kiến của UBND xã Lan Mẫu cho rằng các hộ trước khi được cấp GCNQSDĐ và cấp đổi GCNQSDĐ các hộ đều phải có đơn xin đăng ký QSDĐ và đơn xin cấp đổi lại GCNQSDĐ. Trên đơn đều có sơ đồ thửa đất và các cạnh tiếp giáp liền kề với nhau đều có chữ ký. Trước khi cấp GCNQSDĐ có hội đồng thẩm định của huyện, xã về thẩm định đất của các hộ theo đúng quy trình. Căn cứ vào đơn đề nghị thẩm định, định giá tài sản của ông Đình, tại biên bản thẩm định ngày 15/5/2019 giữa ông Đình và ông Thơm đã xác định và thống nhất với hội đồng thẩm định về mốc giới hai đầu của cạnh đất tiếp giáp giữa hai bên đang xảy ra tranh chấp và biên bản thẩm định ngày 17/9/2019, sơ đồ trích đo địa chính hiện trạng sử dụng đất của vợ chồng ông Đình và vợ chồng ông Thơm thì cạnh tiếp giáp đất hai hộ đang tranh chấp là 1 đường thẳng và xác định ông Thơm xây nhà bếp, nhà vệ sinh có lấn sang đất gia đình ông Đình là có căn cứ, xác định tổng diện tích đất ông Thơm lấn chiếm của ông Đình, bà Vị là 2,589m2 trị giá 569,580đ theo biên bản định giá ngày 15/5/2019 là hình tam giác, hình thang, cụ thể: nhà vệ sinh, nhà bếp lấn chiếm có các cạnh: Cạnh phía Bắc tính từ điểm A đến điểm B, điểm dài 0,41m, cạnh phía Tây tiếp giáp đất gia đình ông Đình tính từ điểm A kéo đến điểm D, từ điểm D kéo đến điểm F dài (3,83m + 3,05m), cạnh phía Đông tính từ điểm E đến điểm C, từ điểm D kéo đến điểm B giáp đất ông Thơm dài (3,06 m + 3,84m), cụ thể: Phần móng nhà bếp nhà vệ sinh lấn chiếm, phía Bắc tính từ điểm A đến điểm N giáp đất nhà ông Đình là 0,04m, cạnh phía Tây giáp đất ông Đình kéo từ điểm N đến điểm G, từ điểm G kéo đến điểm F dài (3,83 m+ 3,05 m), cạnh phía Nam giáp đất ông Đình tính từ điểm F kéo đến điểm E dài 0,12m, cạnh phía Đông tiếp giáp với nhà bếp và nhà vệ sinh của ông Thơm, tính từ điểm F kéo đến điểm D, từ điểm D kéo đến điểm A dài (3,05m + 3,83m). Xác nhận tổng diện tích đất lấn chiếm 2,589m2 nằm trong tổng diện tích 1434 m2 đất ở, đất vườn đã được UBND huyện Lục Nam cấp giấy chứng nhận cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Đình và bà Hà Thị Vị ở thôn Trung An, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang theo Quyết định số 1713/QĐ-UBND ngày 31/10/2014 là thuộc quyền sử dụng của ông Đình và bà Vị. Nhưng xét thấy diện tích đất trên đang tranh chấp không ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Đình, mặt khác ông Thơm đã xây dựng nhà bếp, nhà vệ sinh kiên cố trên diện tích đất, nếu tháo dỡ thì sẽ hủy bỏ giá trị sử dụng của toàn bộ công trình. Để đảm bảo quyền lợi của hai bên, nên cần giao cho ông Thơm được quyền sử dụng diện tích đất lấn chiếm trên nhưng có nghĩa vụ thanh toán trả bằng tiền cho vợ chồng ông Đình, bà Vị.

[4] Trong quá trình Tòa án giải quyết có đưa anh Nguyễn Văn Phượng, chị Nguyễn Thị Lượng, chị Nguyễn Thị Loan, anh Nguyễn Văn Linh đều là con của ông Đình, bà Vị vào tham gia tố tụng với tư cách là người liên quan nhưng anh Phượng, chị Lượng, chị Loan, anh Linh đều cho rằng diện tích đất tranh chấp giữa bố, mẹ anh, chị là ông Đình, bà Vị với ông Thơm không liên quan gì đến các anh, chị nên anh Phượng, chị Lượng, chị Loan, anh Linh đều xin từ chối tham gia tố tụng. Ông Chu Văn Thơm không yêu cầu Tòa án xem xét về việc ông Đình đã phá dỡ một phần bức tường nằm trong bức tường có chiều dài khoảng 30m tính từ phía Nam kéo về phía Bắc bức tường chạy song song với phần cạnh đất đang tranh chấp trong vụ án. Tại phiên tòa, ông Thơm đề nghị Tòa án không đưa các con ông gồm anh Chu Văn Quang, chị Chu Thị Quỳnh, chị Chu Thị Quế vào tham gia tố tụng vì các con ông không đã có đất nhà ở riêng không liên quan đến đất của ông đang tranh chấp với gia đình ông Đình. Còn vợ ông là bà Nguyễn Thị Chanh đã mất năm 2016, hiện UBND xã Lan Mẫu xác nhận diện tích 26 m2 của nhà ông Đình, bà Vì đang thừa so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của gia đình ông Đình, UBND xã Lan Mẫu không có ý kiến gỡ,nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về tiền chi phí trích đo thửa đất, thẩm định, định giá tài sản của hộ ông Đình, ông Thơm: Ngày 15/5/2019 ông Đình đã nộp cho Tòa án số tiền 6.853.000đ để thanh toán tiền trích đo thửa đất, Tòa án đã trả cho Công ty TNHH MTV Tài Nguyên Môi Trường Thành Đạt. Ngày 15/5/2019 ông Đình đã nộp số tiền 4.000.000đ để định giá tài sản, ngày 17/9/2019 ông Đình nộp 1.000.000đ tiền thẩm định phần móng nhà bếp + nhà vệ sinh của gia đình ông Thơm, Tòa án đã giao cho hội đồng định giá, hội đồng thẩm định và đã thanh toán xong với ông Đình các khoản tiền ông Đình đã nộp trên. Nay ông Đình yêu cầu HĐXX buộc ông Thơm phải chịu toàn bộ số tiền chi phí trên là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần buộc ông Thơm phải thanh toán trả cho ông Đình số tiền trích đo thửa đất là 6.853.000đ, tiền định giá tài sản 4.000.000đ, tiền thẩm định 1.000.000đ, tổng 11.853.000đ.

[6] Về án phí: Ông Đình, bà Vị, ông Thơm không phải chịu tiền án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ áp dụng các Điều 26, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 BLTTDS, Điều 175 BLDS, Điều 5, Điều 166 Luật đất đai năm 2013, Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH 14 của ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

2/ Xác nhận diện tích đất 2,589m2 trị giá 569,580đ nằm trong tổng diện tích 1434m2 đất ở, đất vườn đã được UBND huyện Lục Nam cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Đình, bà Hà Thị Vị ở thôn Trung An, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang theo Quyết định số 1713/QĐ-UBND ngày 31/10/2014 thuộc quyền sử dụng của ông Đình và bà Vị là thuộc quyền sử dụng của ông Đình và bà Vị.

- Giao cho ông Chu Văn Thơm được quyền sử dụng diện tích đất 2,589m2 trị giá 569,580đ (diện tích đất chiếm là hình tam giác, hình thang) thuộc thôn Trung An, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Cụ thể: nhà vệ sinh, nhà bếp lấn chiếm có các cạnh: Cạnh phía Bắc tính từ điểm A đến điểm B, dài 0,41m, cạnh phía Tây tiếp giáp đất gia đình ông Đình tính từ điểm A kéo đến điểm D, từ điểm D kéo đến điểm F dài (3,83m + 3,05m), cạnh phía Đông tính từ điểm E đến điểm C, từ điểm L kéo đến điểm B giáp đất ông Thơm dài (3,06 m + 3,84m), cụ thể: Phần móng nhà bếp, móng nhà vệ sinh lấn chiếm, phía Bắc tính từ điểm A đến điểm L giáp đất nhà ông Đình dài 0,04m, cạnh phía Tây giáp đất ông Đình kéo từ điểm L đến điểm G, từ điểm G kéo đến điểm F dài (3,83 m+ 3,05 m), cạnh phía Nam giáp đất ông Đình tính từ điểm F kéo đến điểm E dài 0,12m, cạnh phía Đông tiếp giáp với nhà bếp và nhà vệ sinh của ông Thơm, tính từ điểm F kéo đến điểm D, từ điểm D kéo đến điểm A dài (3,05m + 3,83m). Nhưng ông Chu Văn Thơm phải có trách nhiệm thanh toán trả vợ chồng ông Nguyễn Văn Đình, bà Hà Thị Vị số tiền 569,580đ (Năm trăm sáu mươi chín nghìn lăm trăm tám mươi đồng) (có sơ đồ kèm theo)

Buộc ông Chu Văn Thơm phải có trách nhiệm thanh toán trả cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Đình, bà Hà Thị Vị tiền trích đo thửa đất, tiền định giá tài sản, tiền thẩm định, tổng 11.853.000đ (Mười một triệu tám trăm lăm mươi ba nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được THA có đơn đề nghị THA cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất là 10%/năm tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3/ Án phí: Hoàn trả ông Nguyễn Văn Đình 500.000đ tiền tạm ứng án phí ông Đình đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Nam theo biên lai thu số AA/2017/0003635 ngày 19/12/2018.

Báo cho đương sự có mặt tại phiên tòa biết, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án.

Án xử công khai sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/DS-ST ngày 23/09/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:23/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về