Bản án 23/2018/HSST ngày 26/06/2018 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THÁI HÒA, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 23/2018/HSST NGÀY 26/06/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26/6/2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2018/HSST ngày 24/5/2018 và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2018/QĐXXST-HS ngày 14/6/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn T; Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày: 01/6/1954 tại huyện D, tỉnh Nghệ an; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm 8, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ an; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 7/10; Con ông: Vũ Văn H (đó chết) và con bà Trần Thị B (đó chết); Anh chị em ruột: có 05 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Phan Thị N, sinh năm 1956, nghề nghiệp: Nông nghiệp và có 04 con - lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1993; Hiện trú tại: Xóm 8, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ an; Tiền án: Chưa; tiền sự: Ngày 19/7/2017 bị Công an thị xã T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh bạc” xử phạt số  tiền 1.500.000đồng (một triệu, năm trăm nghìn đồng); Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/4/2018 đến nay - có mặt tại phiên tòa.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh: Cao Thành N, sinh năm 1976

Trú tại: Xóm 7 A, xã N, thị  xã T, tỉnh Nghệ an (vắng mặt có lý do).

- Anh: Đậu Thanh H, sinh năm 1968

Trú tại: Xóm 8, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ an (có mặt).

- Anh: Nguyễn Văn P, sinh năm 1960

Trú tại: Xóm 1, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ an (vắng mặt có lý do).

Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1972

Trú tại: Xóm 7A, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ an (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 16/3/2018 Cao Thành N, Nguyễn Văn P, Đậu Thanh H và Vũ Văn T gặp và rủ nhau thống nhất đánh bạc tại nhà Cao Thành N bằng hình thức đánh “phỏm”, mỗi ván đánh dặt cửa từ 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng) đến 100.000đồng (một trăm nghìn đồng). Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 10 giờ 50 phút cùng ngày thì bị Tổ công tác công an thị xã T  phát hiện, bắt quả tang lập biên bản thu giữ trên chiếu bạc số tiền 1.230.000đồng (một triệu, hai trăm ba mươi nghìn đồng); 01 (một) bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài là công cụ các đối tượng sử dụng để đánh bạc. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ tại túi quần phía sau bên phải của Nguyễn Văn P số tiền 700.000đồng (bảy trăm nghìn đồng); thu giữ túi áo ngực bên trái của Nguyễn Văn P 480.000đồng (bốn trăm, tám mươi nghìn đồng); thu giữ trong ví của Vũ Văn T số tiền 3.000.000đồng (ba triệu đồng); thu giữ trong ví của Đậu Thanh H 1.550.000đồng (một triệu, năm trăm năm mươi nghìn đồng).

Quá trình điều tra các đối tượng tham gia đánh bạc khai nhận sử dụng số tiền để đánh bạc như sau: Cao Thành N sử dụng số tiền 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng); Vũ Văn T sử dụng 400.000đồng (bốn trăm đồng); Nguyễn văn P sử dụng số tiền 330.000đồng (ba trăm ba mươi nghìn đồng). Như vậy tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc vào ngày 16/3/2018 là 1.230.000đồng (một triệu, hai trăm ba mươi nghìn đồng). Đối với Đậu Thanh H chưa sử dụng tiền của mình để tham gia đánh bạc Tại chiếu bạc đó thu giữ ở vị trí ngồi của H số tiền 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng) là do H đánh thắng bạc của các đối tượng trên.

Căn cứ vào kết quả kiểm tra, xác minh tiền án, tiền sự của các đối tượng xác định

Đối với Vũ Văn T: Ngày 19/7/2017 bị Công an thị xã T  ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh bạc” xử phạt số tiền 1.500.000đồng (một triệu, năm trăm nghìn đồng). Do vậy, hành vi của Vũ Văn T bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự 2015.

Về vật chứng của vụ án:

- Thu giữ tại chiếu bạc 1.230.000đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài là tiền và công cụ phạm tội đó được niêm phong và bảo quan theo quy định của pháp luật.

- Thu giữ trong ví của Vũ Văn T số tiền 3.000.000đồng (ba triệu đồng). Quá trình điều tra xác định đây là số tiền T sử dụng vào mục đích cá nhân, không sử dụng để đánh bạc nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T  đã trả lại theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra bị cáo T đó khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 21/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Văn T  phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1, 3 điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 điều 51; điều 36  Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ Văn T  từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Miễn hình phạt tiền cho bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vật chứng của vụ án:

- Áp dụng: Điểm b khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung quỹ Nhà nước tổng số tiền do thực hiện hành vi phạm tội đánh bạc là 1.230.000đồng (một triệu, hai trăm ba mươi nghìn đồng). Trong đó số tiền sử dụng để đánh bạc của Cao Thành N 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng); Vũ Văn T 370.000đồng (ba trăm bảy mươi nghìn đồng); Nguyễn Văn P 360.000đồng (ba trăm sáu mươi nghìn đồng); số tiền thắng bạc của Đậu Thanh H 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng).

- Áp dụng điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài và 01 (một) chiếu nhựa màu đỏ đó qua sử dụng.

Về án phí: Buộc bị cỏo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật, mong hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã T; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ như biên bản sự việc và vật chứng thu giữ, lời khai của bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...,được xem xét và thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 09 giờ 30 phỳt ngày 16/3/2018 Tổ công tác Công an thị xã T phát hiện và bắt quả tang gồm Vũ Văn T, Cao Thành N, Đậu Thanh H, Nguyễn Văn P đang thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh bài “phỏm” ăn tiền tại nhà Cao Thành N nhằm mục đích sát phạt lẫn nhau. Tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc ở trước vị trí ngồi của các đối tượng là 1.230.000đồng (trong đó Cao Thành N 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn); Vũ Văn T 370.000đồng (ba trăm bảy mươi nghìn đồng); Nguyễn Văn P 360.000đồng (ba trăm sáu mươi nghìn đồng); Đậu Thanh H 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng). Do số tiền mà các đối tượng Cao Thành N, Đậu Thanh H, Nguyễn Văn P dùng vào việc đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính. Riêng đối với Vũ Văn T mặc dù số tiền dùng vào việc đánh bạc dưới 5.000.000đồng nhưng do bị cáo đó bị Công an thị xã T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đồng về hành vi đánh bạc vào ngày 19/7/2017 chưa được xóa tiền sự, nay lại tiếp tục phạm tội đánh bạc. Nên đây là yếu tố định tội đối với bị cáo. Vỡ vậy, hành vi phạm tội nờu trờn cũng như tiền sự của bị cáo đó đủ yếu tố cấu thành tội: “Đánh bạc” theo qui định tại khoản 1 điều 321 của Bộ luật hình sự. Vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thái Hòa đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về trật tự công cộng, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn. Hơn nữa hành vi phạm tội của bị cáo còn gây nên những thiệt hại về vật chất của bao gia đình. Bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng một mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo để cải tạo giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng bị cáo chưa có tiền án; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đồng thời theo hồ sơ thể hiện gia đình bị cáo có công với Nhà nước, bố đẻ của bị cáo được tặng thưởng Huân chương chiến thắng hạng ba. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i và s khoản 1, 2 điều 51 bộ luật hình sự.

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi thường trú cụ thể rõ ràng, quá trình sinh sống tại địa phương bản thân và gia đình bị cáo đều chấp hành tốt chủ trương đường lối của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân, nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, mà tạo điều kiện để bị cáo giáo dục tại địa phương cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh về thu nhập của bị cáo thấy rằng hoàn cảnh gia đình khó khăn, thu nhập chủ yếu từ lao động nông nghiệp. Vì vậy miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Thu giữ tại vị trí ngồi của Cao Thành N 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn); Vũ văn T  370.000đồng (ba trăm bảy mươi nghìn đồng);  Nguyễn  Văn  P 360.000đồng (ba trăm sáu mươi nghìn đồng); Đậu Thanh H 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng). Tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 1.230.000đồng (một triệu, hai trăm ba mươi nghìn đồng). Xác định đây là số tiền dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Ngoài ra cũng thu giữ wor túi quần phía sau bên phải của Nguyễn Văn P số tiền 700.000đồng; trước áo ngực của Nguyễn Văn P  480.000đồng; thu giữ trong ví của Vũ Văn T  3.000.000đồng; thu giữ trong ví của Đậu Thanh H 1.550.000đồng. Quá trình điều tra xác định số tiền trên các đối tượng không dùng vào mục đích đánh bạc, nên cơ quan cảnh sát điều tra đó trả lại cho các đối tượng là đúng quy định của pháp luật.

- Thu giữ 01 (một) bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài và 01 (một) chiếu nhựa màu đỏ đó qua sử dụng. Xác định đây là công cụ dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

Đối với các đối tượng anh Cao Thành N; Nguyễn Văn P; Đậu Thanh H đó tham gia đánh bạc cùng với bị cáo Vũ Văn T. Tuy nhiên số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc chưa đủ mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định phạt vi phạm hành chính là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, 3 điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội: “Đánh bạc”.

Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Thanh cho UBND xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ An giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Về vật chứng:

Áp dụng: Điểm b khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung quỹ Nhà nước tổng số tiền dùng vào việc phạm tội là 1.230.000đồng (một triệu, hai trăm ba mươi nghìn đồng). Trong đó của Cao Thành N 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn); Vũ Văn T 370.000đồng (ba trăm bảy mươi nghìn đồng); Nguyễn Văn P 360.000đồng (ba trăm sáu mươi nghìn đồng); Đậu Thanh H tiền thắng bạc là 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Áp dụng: Điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài và 01 (một) chiếu nhựa màu đỏ đó qua sử dụng.

Số vật chứng trên hiện nay đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/5/2018.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo T phải chịu 200.000VNĐ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2018/HSST ngày 26/06/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:23/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Thái Hòa - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về