Bản án 23/2018/HS-ST ngày 12/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 23/2018/HS-ST NGÀY 12/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 12 tháng 4 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B - thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2018/TLST- HS ngày 26 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2018/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

- Bị cáo NGUYỄN ĐỨC H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1976; Quê quán: xã M Q, huyện BV, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn N, xã M Q, huyện B, TP. Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông Nguyễn Đức V (đã chết) và bà Phạm Thị C - sinh năm: 1942; Vợ: Phùng Thị Thanh H1 - sinh năm 1980; Con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm: 2003; con nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo Nguyễn Đức H đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

- Anh Nguyễn Chí L - sinh năm 1977

Địa chỉ: Thôn N - xã M Q - huyện B - tp Hà Nội.

( anh L vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đức H và anh Nguyễn Chí L là hàng xóm ở gần nhà nhau. Khoảng 9h ngày 13/11/2017, H đi lên nhà ông H2 ở gần nhà để xin ớt về ngâm măng thì gặp anh L đi qua, anh L nói với H đi lên thôn MH để chơi. Sau đó, H tiếp tục đi lên nhà ông H2. Khi đi qua nhà anh L, H nhìn thấy 01 chiếc xe mô tô Honda Dream BKS 29X5-151.45 của anh L dựng ở giữa sân có cắm chìa ở ổ khóa. H tiếp tục đi lên nhà ông H3 nhưng không có ai ở nhà nên H quay về. Khi về đến nhà, H nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy của anh L vì biết nhà anh L không có ai ở nhà. H đi bộ lên nhà anh L và mở cổng đi vào vì cổng nhà anh L không khóa, chỉ cài then sau đó H dắt chiếc xe máy đi ra và cài then cổng như ban đầu. Khi ra khỏi cổng, H ngồi lên xe thả trôi dốc theo hướng ra Trường mầm non xã MQ rồi nổ máy xe điều khiển đi theo đường bờ sông đến k9 đi theo tỉnh lộ 411 đường rẽ hướng theo hồ Suối Hai đến thôn TB - xã ĐT - huyện B- TP. Hà Nội vào nhà ông Phùng Trần Q ( là bố vợ của H) để gửi chiếc xe trên. Tại đây, H mượn ông Q hai (02) chiếc cờ lê để tháo bỏ biển kiểm soát của chiếc xe, thấy trong nhà không có ai để ý H để chiếc xe lại nhà ông Q rồi đi bộ đem chiếc biển kiểm soát ra khu vực dự án Bệnh viện B mới đang xây dựng vứt bỏ biển kiểm soát của xe vào khu để rác thải của người dân rồi đi ra đường quốc lộ 32 đón xe buýt đi xuống khu công nghiệp N H - T T để làm việc.

Sau khi nhận được đơn trình báo, Đồn Công an TV phối hợp Công an xã tiến hành xác minh, rà soát camera dọc các tuyến đường đã xác định được hướng di chuyển của đối tượng và sàng lọc được đối tượng nghi vấn là Nguyễn Đức H. Đồn Công an TV đã triệu tập H đến trụ sở làm việc. Quá trình điều tra , H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 15/11/2017, Đồn Công an TV đã thu được chiếc xe mô tô trên tại nhà ông Phùng Trần Q. Ngày 22/11/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Vì đã ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda kiểu dáng Dream màu sơn nâu, số khung: 087644, số máy: 0087638, xe đã qua sử dụng.

* Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B số 64 ngày 12/12/2017 kết luận: "01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM, màu sơn nâu, biển số: 29X5-151.45, số khung: 087644, số máy: 0087638, xe đã qua sử dụng:có giá trị: 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng chẵn).

Về vật chứng vụ án: Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã thu giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu sơn nâu, số khung: WY087644, số máy: HA05E0087638, Ngày 06/12/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã trao trả chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Chí L.

Về dân sự: Anh Nguyễn Chí L đã nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô trên. Anh L yêu cầu Nguyễn Đức H bồi thường 500.000đ ( Năm trăm ngàn đồng) chi phí làm lại biển kiểm soát của chiếc xe. Ngày 20/3/2018, Nguyễn Đức H đã tự nguyện bồi thường cho anh Nguyễn Chí L: 500.000 đồng ( Năm trăm ngàn đồng) anh L đã nhận đủ số tiền trên và không còn yêu cầu gì khác về mặt dân sự.

* Bản cáo trạng số 23/2018/CT-KSĐT ngày 22 tháng 03 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B - tp Hà Nội đã truy tố bị caó Nguyễn Đức H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (chiểu theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015).

Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã nêu. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội tham gia phiên toà giữ quyền công tố phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

*Áp dụng khoản 1 điều 138; điểm b, p, h khoản 1 và khoản 2 điều 46 và điều 60 Bộ luật hình sự 1999 ( khoản 1 Điều 173, điểm b,i,s khoản 1 điều 51 và khoản 2 điều 65 Bộ luật hình sự 2015) xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo vì hoàn cảnh khó khăn.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

* Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện B, điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

* Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã nêu. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 09 ngày 13/11/2017 lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản đi vắng, xe để ngoài sân không khóa cổ, khoá càng, cổng không khóa. Nguyễn Đức H đã có hành vi lén lút mở cổng nhà anh Nguyễn Chí L vào sân dắt trộm 01 chiếc xe máy mô tô Honda Dream BKS 29X5- 15145 của gia đình anh Nguyễn Chí L để chiếm đoạt đem đi gửi tại nhà ông Phùng Trần Q ở thôn T B - xã ĐT - huyện B - TP. Hà Nội là bố vợ của H. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: Chiếc xe trên có trị giá là 8.000.000 đ (Tám triệu đồng). Hành vi của Nguyễn Đức H trong vụ án này đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản”. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Trộm cắp tài sản “ theo quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 chiểu theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng qui định của pháp luật.

Xét tính chất của vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo đã lén lút trộm cắp gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an địa phương, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do vậy cần phải xử phạt nghiêm khắc trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Xét tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s, b khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Qua phân tích các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo Nguyễn Đức H là một thanh niên tuổi đời còn trẻ được sinh ra trong một gia đình nông dân thuần túy. Bản thân có sức khỏe là lao động chính trong gia đình lẽ ra bị cáo phải chịu khó chăm chỉ lao động, tu dưỡng rèn luyện bản thân giúp ích cho gia đình và xã hội. Xong chỉ vì lòng tham của bản thân thấy cơ hội nhà anh Nguyễn Chí L sơ hở tài sản, không có người ở nhà, H đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô Honda, Dream BKS 29X5- 15145 của gia đình anh Nguyễn Chí L. Để tránh sự phát hiện H đã tháo và ném bỏ biển kiểm soát của chiếc xe mô tô mà H đã trộm cắp vào khu bãi rác thải dân cư nên Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc Biển kiểm soát trên, điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật, lẽ ra phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian theo điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Do vậy không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng khoản 1,2 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định một thời gian thử thách giao bị cáo H về nơi cư trú để giám sát giáo dục cũng đủ sức giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt.

Tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự còn quy định người phạm tội còn có thể bị phạt bổ sung từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng; Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo không có công ăn việc làm, thu nhập ổn định, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về dân sự: Anh Nguyễn Chí L đã nhận lại xe và số tiền 500.000 đồng tiền đi lại làm Biển kiểm soát xe mô tô. Anh L không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Xét đây là sự tự nguyện của các đương sự nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/. Xử : Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

2/ Áp dụng: Khoản 1 điều 173, điểm b, i, s khoản 1 điều 51 khoản 1,2 điều 65; Bộ luật hình sự hình sự năm 2015.

Xử phạt : Nguyễn Đức H 09 ( chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

+ Giao bị cáo Nguyễn Đức H về Uỷ ban nhân dân xã M Q, huyện B, thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục bị cáo.

3/ Án phí : Áp dụng điều 135, điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ; khoản 1điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Bị cáo Nguyễn Đức H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3/. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm năm 2015

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2018/HS-ST ngày 12/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:23/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về