TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 23/2018/DS-ST NGÀY 22/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỌ
Ngày 22 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:53/ TLST- TCDS ngày 10 tháng 08 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp họ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:04/2018/QĐXX-TCDS ngày 03 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1968; địa chỉ cư trú: thôn Tân Ph, xã Quảng Ph, huyện Quảng Tr, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
2. Bị đơn:
Ông Lê Quốc N, sinh năm 1970; địa chỉ cư trú: thôn Di L, xã Quảng T, huyện Quảng Tr, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
Bà Trần Thị Hồng M, sinh năm 1961; địa chỉ cư trú: thôn Di L, xã Quảng T, huyện Quảng Tr, tỉnh Quảng Bình. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện các lời khai trong quá trình gải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị B trình bày:
Do có mối quan hệ quen biết từ trước nên giữa bà B và ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M có thỏa thuận chơi họ theo hình thức có tính lãi, việc chơi họ từ năm 2015 đến 2016 và đến kỳ mở họ thì ông N, bà M đều trả tiền gốc và lãi cho bà. Việc thu tiền góp họ do ông N trực tiếp đến thu tại bà. Theo đó, bà đã tham gia nộp 02 ống họ tại ông N, bà M, cụ thể: ống thứ nhất nộp từ ngày 11/9/2015 đến ngày 20/3/2016 (âm lịch), mỗi ngày đóng 200.000 đồng, với tổng số tiền 38.000.000; ống thứ hai nộp từ ngày 11/10/2016 đến ngày 20/3/2016 (âm lịch), mỗi ngày đóng 200.000 đồng, với số tiền 32.000.000đ. Tổng số tiền cả hai ống họ mà bà đã nộp cho ông N, bà M là 70.000.000 đồng. Đến ngày 21/3/2016 (âm lịch) ông N, bà M tuyên bố vỡ họ nên không trả lại số tiền trên cho bà.
Nay bà B yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải trả cho bà B một lần số tiền mà bà đã đóng họ là 70.000.000 đồng, bà B không yêu cầu tính lãi.
Tại bản tự khai ngày 04/9/2018 và tại phiên tòa sơ thẩm, ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M thống nhất trình bày:
Ông N, bà M thừa nhận ông, bà đã từng cùng nhau làm chủ họ từ nhiều năm và hai người sống chung như vợ chồng từ năm 2007. Do có mối quan hệ quen biết từ trước, nên ông, bà và bà Nguyễn Thị B có thỏa thuận chơi họ có tính lãi. Bà B đã tham gia đóng họ tại ông, bà hai ống, ống thứ nhất nộp từ ngày 11/9/2015 đến ngày 20/3/2016 (âm lịch), mỗi ngày đóng 200.000 đồng, với tổng số tiền 38.000.000; ống thứ hai nộp từ ngày 11/10/2016 đến ngày 20/3/2016 (âm lịch), mỗi ngày đóng 200.000 đồng, với số tiền 32.000.000 đồng, ông, bà thừa nhận còn nợ tiền họ của bà B là 70.000.000 đồng, đúng như bà bãy đã trình bày. Ông, bà trình bày hiện nay đang gặp hoàn cảnh khó khăn, do bị vỡ họ, có nhiều người đang nợ tiền họ của ông, bà, nên ông, bà không có khả năng thanh toán một lần số tiền 70.000.000 đồng cho bà B mà xin được trả dần.
Ngày 01/10/2018, Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch đã tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Quảng T, kết quả thể hiện: Tại hồ sơ lưu trữ tại Ủy ban nhân dân xã Quảng T không thể hiện việc đăng ký kết hôn giữa ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể khi thụ lý vụ án đến quá trình xét xử đều thực hiện đúng các quy định tại các Điều 48, 51, 70, 71, 72 và 234 của Bộ luật tố tụng dân sự và không có kiến nghị gì đối với vụ án. Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 479, 298 Bộ luật dân sự năm 2005, buộc ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M phải có nghĩa vụ liên đới trả số tiền 70.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị B. Ông N, bà M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M có nơi cư trú tại: xã Quảng T, huyện Quảng Tr, tỉnh Quảng Bình. Căn cứ điểm điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Tr. Bà Nguyễn Thị B khởi kiện yêu cầu ông Lê Quốc N và Trần Thị Hồng M trả cho bà số tiền nợ họ 70.000.000 đồng, do vậy xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng góp họ theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 479 Bộ luật dân sự 2005.
[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ông N, bà M thanh toán số tiền góp họ 70.000.000 đồng thấy rằng: giữa ông N, bà M và bà Nguyễn Thị B đã tự nguyện, thỏa thuận cùng nhau xác lập quan hệ giao dịch dân sự góp họ. Mặc dù việc thỏa thuận góp họ giữa các bên không lập thành văn bản, nhưng các bên cùng thừa nhận bà B là thành viên góp tiền họ còn ông N, bà M là chủ họ. Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, ông N, bà M đều xác nhận hiện tại đang nợ của bà Nguyễn Thị B số tiền họ là 70.000.000 đồng. Do các bên đã tự nguyện giao kết hợp đồng đân sự góp họ, với hình thức họ có lãi, nên theo quy định tại Điều 479 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 17 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường, ông N, bà M là chủ họ đã vi phạm nghĩa vụ và theo quy định tại các Điều 15, 29 của Nghị định 144/2006/NĐ- CP thì ông N, bà M phải có nghĩa vụ trả cho bà B số tiền họ còn nợ là 70.000.000 đồng. Do bà B không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Xét thấy ông N, bà M thừa nhận hai người đã sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2007, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Vì vậy ông N, bà M phải chịu nghĩa vụ liên đới trả nợ cho bà B số tiền 70.000.000 đồng theo quy định tại Điều 298 của Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó ông N, bà M mỗi người có nghĩa vụ trả nợ cho bà B số tiền là 35.000.000 đồng.
[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, vì vậy ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải liên đới chịu toàn bộ án phí vụ kiện, mỗi người phải nộp 1.750.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.
Xét đơn xin giảm án phí của ông N, bà M với lý do quá trình làm ăn bị vỡ họ, dẫn đến điều kiện kinh tế gia đình khó khăn và gặp sự kiện bất khả kháng, đơn có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Quảng T. Vì vậy căn cứ Điều 13 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chấp nhận giảm cho ông N, bà M 50% tiền án phí. Số tiền án phí còn lại ông N, bà M mỗi người phải nộp là 875.000 đồng để sung vào công quỹ nhà nước.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 479 và Điều 298 của Bộ luật dân sự năm 2005;
Khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B.
Buộc bị đơn ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị B số tiền nợ 70.000.000 đồng, số tiền theo phần mỗi người phải trả là 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng).
Kể từ ngày bà Nguyễn Thị B có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M, mỗi người phải nộp là 875.000 đồng (Tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) để sung vào công quỹ nhà nước.
Trả lại cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị B số tiền tạm ứng án phí 1.750.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Tr theo biên lai số 0001045 ngày 10/8/2018.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm(22/10/2018). Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
Bản án 23/2018/DS-ST ngày 22/10/2018 về tranh chấp hợp đồng góp họ
Số hiệu: | 23/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về