Bản án 228/2021/HSST ngày 26/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 228/2021/HSST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 04 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 196/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 03 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2021/QĐXXST-HS ngày 02/04/2021 đối với bị cáo:

Đồng Văn B; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1985; Tại: tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký HKTT: E921A, khu phố 5A, phường L, thành phố B, Đồng Nai; Chổ ở hiện nay: lang thang; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đồng Văn Nh, sinh năm: 1940 và bà Hồ Thị M, sinh năm: 1946( đã chết); Chưa có vợ con.

Tiền án: 02( hai) - Ngày 17/12/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 803/2012/HSST;

- Ngày 24/4/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 218/2013/HSST. Tổng hợp hình phạt với bản án số 803/2012/HSST là 04 (bốn) năm 02 (hai) tháng tù;

Tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 10/01/2021, sau đó chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 210 ngày 19/01/2021. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố B.

Bị hại: Hoàng Thị L, sinh năm: 1989.

Địa chỉ: 1/A1, tổ 9, khu phố 3A, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. ( Bị cáo có mặt, bị hại vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 50 phút, ngày 10 tháng 01 năm 2021, sau khi Đồng Văn B và đối tượng tên Ng (không rõ nhân thân, lai lịch) rủ nhau đi trộm cắp tài sản, Ngọc điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius (không rõ biển số) chở Bền đi lòng vòng tìm tài sản để trộm cắp, khi đi qua nhà của chị Hoàng Thị L (sinh năm 1989) tại địa chỉ số 1/A1, tổ 9, khu phố 3A, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện chiếc xe môtô hiệu Honda Vision, biển số 60B5-530.53 của chị L đang dựng trong sân nhà, trên ổ khóa xe vẫn cắm chìa khóa. Ng dừng xe cho B xuống rồi đi vào dắt chiếc xe mô tô ra ngoài, khi vừa dắt ra đến cửa thì chị L phát hiện truy hô và được người dân hỗ trợ bắt giữ được B giao cho Công an phường L lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B khởi tố, điều tra xử lý. Riêng đối tượng Ng đã tẩu thoát.

Vật chứng vụ án gồm:

- 01 chiếc xe môtô hiệu Honda Vison biển số 60B5-530.53, là tài sản bị trộm cắp đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị L.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Realme C11 màu xanh, là tài sản riêng của bị can B, không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho bị cáo B.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 1280, có gắn sim số 0943.753.409 là phương tiện bị cáo B sử dụng để liên lạc với đối tượng Ng rủ nhau đi trộm cắp tài sản.

- 03 bộ đoản bằng kim loại dùng để phá khóa (đầu dẹt, đầu tù, dài khoảng 06cm); 01 đoạn kim loại dài khoảng 04 cm, hai đầu gắn nam châm và 01 đoản bằng kim loại hình chữ L, dài 12cm, là dụng cụ bị cáo sử dụng để đi trộm cắp tài sản.

Tại kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐGTS ngày 12 tháng 01 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận:

01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 60B5-530.53 có trị giá là 19.080.000 đồng (Mười chín triệu, không trăm, tám mươi nghìn đồng).

Về dân sự: bà Nguyễn Thị L đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường.

Tại cáo trạng số 224/CT-VKS-HS ngày 29/03/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Đồng Văn B về tội “ Trộm cắp tài sản ” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ hình hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên Tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Đồng Văn B mức hình phạt từ 01( Một) năm 06( sáu) tháng đến 02( Hai) năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2] Về pháp luật áp dụng và xác định tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với chứng cứ có tại hồ sơ. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 16 giờ 50 phút, ngày 10/01/2021, tại nhà số 1/A1, tổ 9, khu phố 3A, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Đồng Văn B và đối tượng tên Ng đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe môtô hiệu Honda Vision, biển số 60B5- 530.53, trị giá là 19.080.000 đồng (Mười chín triệu, không trăm, tám mươi nghìn đồng) của chị Nguyễn Thị L thì B bị bắt giữ, khởi tố điều tra xử lý; còn đối tượng Ng đã tẩu thoát Căn cứ khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản”.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, bị cáo đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo phải chịu thêm tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm để răng đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên cũng xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Đối với đối tượng tên Ng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có dấu hiệu đồng phạm với Bền, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau theo quy định pháp luật

[4] Về biện pháp tư pháp và trách nhiệm dân sự:

+ 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 1280 là phường tiện để Bền dùng liên lạc với đối tượng Ng nên tịch thu sung quỹ nhà nước là phù hợp.

+ 01 sim số 0943.753.409; 03 bộ đoản bằng kim loại dùng để phá khóa (đầu dẹt, đầu tù, dài khoảng 06cm); 01 khúc kim loại dài khoảng 04 cm, hai đầu gắn nam châm; 01 đoản bằng kim loại hình chữ L, dài 12cm, là số dụng cụ B sử dụng để đi trộm cắp tài sản không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Về dân sự: bà Nguyễn Thị L đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí HSST: bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố bị cáo Đồng Văn B phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Đồng Văn B 02( Hai) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 10/01/2021.

2. Về biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 1280

+ Tịch thu tiêu hủy 01 sim số 0943.753.409; 03 bộ đoản bằng kim loại dùng để phá khóa (đầu dẹt, đầu tù, dài khoảng 06cm); 01 khúc kim loại dài khoảng 04 cm, hai đầu gắn nam châm; 01 đoản bằng kim loại hình chữ L, dài 12cm Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/04/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B 2. Về án phí HSST: bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 228/2021/HSST ngày 26/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:228/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về