Bản án 228/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 228/2017/HSST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 225/2017/HSST, ngày 21/9/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Đình T; Sinh năm: 1990; tại: Tỉnh Đắk Lắk; Tên gọi khác: C; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố 0, phường E, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở: 385/8/1 đường L, phường E, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông: Phạm Đình P, sinh năm: 1952 và bà: Nguyễn Thị N, sinh năm: 1965; Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án 01; tiền sự: Không

Ngày 19/11/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 09 tháng tù giam, về tội: “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số: 359/2015/HSST. Ngày 17/5/2016, chấp hành xong hình phạt tù, về địa phương sinh sống. Bị cáo chưa được xóa án tích.

Nhân thân:

Ngày 23/9/2011, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma tuý, với mức phạt tiền: 500.000 đồng.

Ngày 03/8/2012, bị Uỷ ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Đắk Lắk, thời hạn 24 tháng về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma tuý. Ngày 08/5/2014, chấp hành xong về địa phương cư trú.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngay 06/9/2017 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Bà Nguyễn Thùy Trang Mỹ D – (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 21 Đường V, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Kiều Hải Uyên – (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 267/12 Đường Đ, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo về hành vi phạm tội như sau:

Phạm Đình T là đối tượng nghiện chất ma tuý và đã có 01 tiền án về tội: “Trộm cắp tài sản”, chưa được xoá án tích. Khoảng 12 giờ ngày 05/9/2017, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số: 47B1-995.01 đi đến khu vực chợ B, thuộc tổ dân phố 0, phường E, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, tìm kiếm tài sản của người dân để sơ hở thì trộm cắp. Tại đây, T nhìn và quan sát thấy Kiốt A26 của chị Nguyễn Thuỳ Trang Mỹ D (sinh năm: 1985, trú tại: Số 21, đường Đường V, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) không có người trông coi. T dựng xe cách đó khoảng 05m rồi đi đến Kiốt A26 lén lút trộm cắp: 01 túi nilong màu đen, bên trong có 04 túi xách và 15 ba lô đều làm bằng da các loại, T mang ra để ở gacbaga xe mô tô biển số: 47B1- 995.01, nổ máy điều khiển xe tẩu thoát thì bị lực lượng Công an phường EaTam và quần chúng nhân dân phát hiện bắt quả tang, giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, xử.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 225/KLĐG ngày 07 tháng 9 năm 2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 04 chiếc túi xách và 15 ba lô làm bằng da, các loại; tổng giá trị tài sản: 475.000 đồng.

Tại quyết định truy tố số: 240/KSĐT-HS ngày 21 tháng 9 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Phạm Đình T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999.

Kết quả xét hỏi tại phiên toà bị cáo Phạm Đình T khai nhận hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan.

Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới làm thay đổi bản chất của vụ án nên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột vẫn giữ nguyên quyết định truy tố số: 240/KSĐT-HS ngày 21 tháng 9 năm 2017 và đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Phạm Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự; Điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Đề nghị xử phạt: Phạm Đình T từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, trao trả: 04 túi xách và 15 ba lô bằng da các loại cho chị Nguyễn Thuỳ Trang Mỹ D; Trả lại: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen, biển số: 47B1-995.01, cho chị Nguyễn Kiều Hải U, là chủ sở hữu nhận quản lý sử dụng.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Đình T thừa nhận hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 12 giờ ngày 05/9/2017, Phạm Đình T đi đến Kiốt A26 chợ B, thuộc tổ dân phố 0, phường E, thành phố Buôn Ma Thuột lén lút trộm cắp: 01 túi nilong màu đen, bên trong có 04 túi xách và 15 ba lô đều làm bằng da các loại của chị Nguyễn Thuỳ Trang Mỹ D, thì bị phát hiện bắt quả tang. Xác định trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 475.000 đồng. Mặc dù trị giá tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích.

Do đó, có đủ cơ sở pháp lý kết luận hành vi của bị cáo Phạm Đình T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất hành vi của bị cáo là nguy hiểm, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác, đồng thời hành vi phạm tội của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Mặc dù bị cáo nhận thức được rằng tài sản của công dân là bất khả xâm phạm, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị pháp luật trừng trị. Song xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật với bản chất lười biếng lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thuỳ Trang Mỹ Dung, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do lỗi cố ý gây ra.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. 

Điều 138 Bộ luật hình sự quy định:

 “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

Về các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Về nhân thân của bị cáo, HĐXX thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, đã có tiền án về hành vi chiếm đoạt nhưng chưa được xóa án tích. Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản trộm cắp có giá trị không lớn đã tịch thu trả cho người bị hại. Như vậy bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Vì vậy, HĐXX xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

Với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo như đã nhận định trên, HĐXX thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để buộc bị cáo phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, trao trả: 04 túi xách và 15 ba lô bằng da các loại cho chị Nguyễn Thuỳ Trang Mỹ D; Trả lại: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen, biển số: 47B1-995.01, cho chị Nguyễn Kiều Hải U, là chủ sở hữu nhận quản lý sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Tuyên bố: Bị cáo Phạm Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự; Điểm g, p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Đình T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/9/2017.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, trao trả: 04 túi xách và 15 ba lô bằng da các loại cho chị Nguyễn Thuỳ Trang Mỹ D; Trả lại: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen, biển số: 47B1-995.01, cho chị Nguyễn Kiều Hải U, là chủ sở hữu nhận quản lý sử dụng.

[2] Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 228/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:228/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về