Bản án 228/2017/DS-PT ngày 21/12/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 228/2017/DS-PT NGÀY 21/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 228/2017/TLPT-DS ngày 25 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2017/DS-ST ngày 13/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 291/2017/QĐPT-DS ngày 14 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị G, sinh năm 1952 (có mặt)

- Bị đơn: Ông Phùng Văn H, sinh năm 1964 (có mặt) Bà Huỳnh V, sinh năm 1964 (có mặt)

Cùng địa chỉ: Ấp S, xã V, huyện N, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Ông Phùng Văn H và bà Huỳnh V – Bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Huỳnh Thị G trình bày: Vào ngày 10/02/2002 bà cho vợ chồng Phùng Văn H và bà Huỳnh V vay số tiền 40.000.000 đồng, lãi suất 1.200.000 đồng/tháng, vợ chồng ông H đã đóng lãi được 18.940.000 đồng vào năm 2011 và 5.000.000 đồng vào năm 2013. Tính đến năm 2013, vợ chồng ông H đã đóng lãi cho bà được 23.940.000 đồng.

Tổng cộng tiền lãi từ năm 2002 đến nay là 185 tháng x 1.200.000 đồng = 222.000.000 đồng. Đối trừ phần lãi đã đóng 23.940.000 đồng. Nay bà yêu cầu vợ chồng ông H thanh toán tổng cộng vốn và lãi là 238.060.000 đồng.

Bị đơn ông Phùng Văn H trình bày: Ngày 10/02/2002 ông có vay của bà Huỳnh Thị G số tiền 40.000.000 đồng, với lãi suất 3%/tháng với số tiền 1.200.000 đồng/tháng. Ông đóng lãi đến ngày 10/5/2002 bà G tăng lãi suất lên 5%/tháng với số tiền 2.000.000 đồng/tháng. Vì lãi quá cao nên ông không đóng nổi. Đến tháng 8 năm 2004 bà G cho trả từ từ. Ông đã trả được 7.000.000 đồng, sau đó đến ngày 30/7/2006 bà G mở hụi 200.000 đồng, ông tham gia 3 dây, tổng số tiền hụi ông được lãnh là 18.430.000 đồng, ông trả cho bà G để trừ nợ. Đến năm 2013 trả cho bà G 5.000.000 đồng. Đến nay ông xác định đã trả tiền vốn của bà G là 30.430.000 đồng. Ngoài ra ông còn xác định tiền lãi của 15 tháng mỗi tháng 1.200.000 đồng, ông đã đóng cho bà G được 18.000.000 đồng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 46/2017/DS-ST ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển quyết định:

Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 477; Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị G. Ông Phùng Văn H và bà Huỳnh V có nghĩa vụ thanh toán cho bà Huỳnh Thị G số tiền 87.055.600 đồng.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị G về yêu cầu ông Phùng Văn H và bà Huỳnh V thanh toán số tiền 151.004.400 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 26/9/2017 ông Phùng Văn H và bà Huỳnh V có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu được đối trừ vốn đã trả cho bà Huỳnh Thị G là 30.430.000 đồng, còn lại trả vốn là 9.670.000 đồng và lãi suất theo khung lãi suất Ngân hàng Nhà nước quy định đối với số tiền còn lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm ông H và bà V khẳng định do ông, bà đã thanh toán số tiền gốc cho bà G là 30.430.000 đồng nên yêu cầu được đối trừ vào nợ gốc 40.000.000 đồng.

Xét việc vay nợ ông H và bà V thừa nhận có vay của bà G vào ngày 10/02/2002 âl số tiền vay là 40.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận hợp đồng vay bằng lời nói. Hiện nay bà G thừa nhận ông H và bà V đã thanh toán cho bà số tiền lãi là 30.430.000 đồng, còn vợ chồng ông H, bà V lại xác định số tiền này là thanh toán tiền gốc do khi thanh toán bà G chấp nhận.

Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm bà G không thừa nhận việc trả vốn gốc và tại phiên tòa phúc thẩm bà G cũng không thừa nhận chấp nhận cho ông H và bà V thanh toán vốn gốc. Việc vay nợ kéo dài thời gian từ năm 2002 đến nay, quá trình thanh toán tiền lãi phía nguyên đơn không chứng minh được đã thanh toán tiền lãi cũng như vốn gốc là bao nhiêu, ông H, bà V cũng không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào để chứng minh là khi thanh toán số tiền 30.430.000 đồng cho bà G là thanh toán số tiền gốc, nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông H, bà V. Cấp sơ thẩm chấp nhận một phần khởi kiện của bà G buộc ông H và bà V phải thanh toán cho bà G số tiền 87.055.600 đồng gốc và lãi là có căn cứ.

[2] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông H và bà V phải chịu án phí phúc thẩm mỗi người là 300.000 đồng, đã dự nộp được chuyển thu.

[3] Những quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không giải quyết; có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH12 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Phùng Văn H và bà Huỳnh V. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 46/2017/DS-ST ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị G. Ông Phùng Văn H và bà Huỳnh V có nghĩa vụ thanh toán cho bà Huỳnh Thị G số tiền 87.055.600 đồng.

Án phí dân sự phúc thẩm ông Phùng Văn H và bà Huỳnh V phải chịu là 300.000 đồng. Cùng ngày 26/9/2017 ông Phùng Văn H đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0013850; bà Huỳnh V đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0013851 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N được chuyển thu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 228/2017/DS-PT ngày 21/12/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:228/2017/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về