Bản án 227/2019/HSPT ngày 02/08/2019 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 227/2019/HSPT NGÀY 02/08/2019 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 02 tháng 8 năm 2019, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 209/2019/TLPT-HS ngày 02 tháng 7 năm 2019, do có kháng cáo của bị cáo Phan Thanh T đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2019/HSST ngày 23/05/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Phan Thanh T, sinh ngày 11 tháng 11 năm 1988, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn E, xã E1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Phan Thanh K và bà Nguyễn Thị A; có vợ là Nguyễn Thị L và có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh tháng 7 năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/12/2018 Tổ tuần tra kiểm soát giao thông Công an huyện K gồm các ông Lê Đình C, Lương Công Q, Nguyễn Gia L1 và Cao Tiến A1 thực hiện kế hoạch số 05/KH-CAH ngày 17/12/2018 của Công an huyện K tiến hành tuần tra khu vực đường liên xã thuộc xã E1, huyện K với nhiệm vụ phát hiện và xử lý vi phạm người tham gia giao thông trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày Phan Thanh T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47E1-333.68 chở anh Lê Đình M, trú tại huyện Y, tỉnh Bắc Giang ngồi sau không đội mũ bảo hiểm đi theo hướng xã E2 về xã E1. Khi đi đến đoạn đường thôn TN, xã E1 thì bị Đội tuần tra phát tín hiệu yêu cầu dừng xe để kiểm tra, lúc này thấy T có mùi rượu nên ông Nguyễn Gia L1 và ông Lương Công Q (thành viên đội tuần tra) yêu cầu T xuất trình giấy tờ xe và đo nồng độ cồn thì T đưa giấy tờ xe rồi cất trong người và không chấp hành việc cung cấp giấy tờ xe để kiểm tra và đo nồng độ cồn. Ông L1 dắt xe mô tô của T và yêu cầu T lại xe ô tô của Cảnh sát giao thông để lập biên bản, T đi theo xin bỏ qua và nộp phạt tại chỗ nhưng không được chấp nhận. Khi ông L1 đưa xe của T lên xe ô tô cảnh sát thì T leo lên xe ô tô la lối và nói “Không cho xin xe thì tao đốt xe”, rồi T mở nắp xăng xe mô tô, bật lửa dọa đốt xe nhằm để lực lượng Cảnh sát giao thông bỏ qua không giữ xe của T. Thấy vậy, ông Lê Đình C lên xe ô tô ngăn cản lại thì T dùng chân đạp vào xe mô tô, sau đó ông Q và ông L1 cũng lên xe để đưa T xuống, lúc này T cầm nắp xăng vung qua vung lại trúng vào ngón tay trỏ của ông L1, tiếp đó T dùng đầu húc 03 đến 04 cái vào ngực ông L1. T thấy ông Q đang dùng điện thoại di động quay lại sự việc thì T đi lại dùng tay đập làm điện thoại rơi xuống đất vỡ kính cường lực, sau đó T bỏ đi, ông L1 đã đi theo để yêu cầu T quay lại ký biên bản vi phạm hành chính thì T quay lại dùng tay đánh 01 cái vào mũ bảo hiểm đang đội trên đầu làm ông L1 ngã xuống đường. Lúc này, Tổ tuần tra và Công an xã E1 có mặt ở đó đã tiến hành khống chế T đưa về Công an xã E1 làm việc.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2019/HSST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phan Thanh T phạm tội “Chống người thi hành công vụ” Áp dụng khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phan Thanh T 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên xử về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/5/2019 bị cáo Phan Thanh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Thanh T vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm, luận tội:

Đi với bị cáo và phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội: “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Xét mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo có cung cấp thêm bố vợ là người có công với cách mạng được thưởng huân huy chương nhưng hiện nay đã chết, bị cáo là người thờ cúng bố vợ. Vợ của bị cáo mới sinh con mới được một tháng, bị cáo là lao động chính trong nhà, hoàn cảnh của bị cáo quá khó khăn. Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm thể hiện sự ăn năn hối cải. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo cho bị cáo được hưởng án treo, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, sửa bản án án hình sự sơ thẩm số: 25/2019/HSST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện K về phần hình phạt.

Áp dụng khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Thanh T 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận gì chỉ đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Phan Thanh T tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào 16 giờ 30 phút ngày 17/12/2018 tại đoạn đường thôn TN, xã E1 trong khi bị cáo bị Đội tuần tra kiểm soát Công an huyện K kiểm tra giấy tờ xe và đo nồng độ cồn vì vi phạm Luật giao thông thì bị cáo không chấp hành mà bị cáo đã có hành vi chửi bới, đe dọa, đánh chống trả, ngăn cản lực lượng Cảnh sát Giao thông đang thực thi nhiệm vụ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Thanh T về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Tòa cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có cung cấp thêm vợ của bị cáo mới sinh con mới được một tháng, bị cáo là lao động chính trong nhà, hoàn cảnh của bị cáo quá khó khăn. Bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm thể hiện sự ăn năn hối cải, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng do đó cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội cũng đủ giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội. Xét đơn kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo là có căn cứ cần được chấp nhận, sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2019/HSST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần hình phạt.

Xét đơn trình bày của ông Nguyễn Gia L1, ông Lê Đình C, ông Lương Công Q và Cao Tiến A1về việc không cho bị cáo T được hưởng án treo. Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, căn cứ vào nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kiến nghị của ông L1, ông Công, ông Q và ông A1.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Phan Thanh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thanh T.

- Sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2019/HSST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Phan Thanh T 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chống người thi hành công vụ”, thời gian thử thách 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời hạn chấp hành tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Phan Thanh T về cho UBND xã E1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk là nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương t rong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.

Tng hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

[3] Án phí: Bị cáo Phan Thanh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

715
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 227/2019/HSPT ngày 02/08/2019 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:227/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về