Bản án 227/2019/DS-ST ngày 02/05/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 227/2019/DS-ST NGÀY 02/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 434/2018/TLST-DS ngày 11 tháng 10 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Linh Thị Minh Y, sinh năm 1961

Địa chỉ: đường Tam B, khu phố B, phường Hiệp Bình C, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị H, sinh năm 1995 (có đơn xin vắng mặt) Giấy ủy quyền ngày 17/9/2018

2. Bị đơn: Bà Phạm Thị L

Địa chỉ: khu phố a, phường Tam B, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Hữu N, sinh năm 1958

Địa chỉ: đường Tam B, khu phố A, phường Hiệp Bình C, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị H, sinh năm 1995 (có đơn xin vắng mặt)

Giấy ủy quyền ngày 17/9/2018

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/9/2018, bản tự khai và ý kiến của đại diện nguyên đơn Bà Lê Thị H trình bày:

Vào ngày 13/8/2015 bà Linh Thị Minh Y có cho bà Phạm Thị Lvay số tiền là 200.000.000 đồng, hai bên không có thỏa thuận lãi suất. Khi vay hai bên viết biên nhận mượn tiền, theo thỏa thuận thì khi nào bà Y cần thì bà L sẽ trả hết số tiền trên. Tuy nhiên sau khi vay tiền được một thời gian thì bà Y có yêu cầu nhưng bà L không trả nên ngày 17/9/2018 bà Y đã giao thông báo đòi nợ với nội dung “Yêu cầu bà L trả số tiền còn nợ là 200.000.000 đồng trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo”. Tuy nhiên do bà L cố tình né tránh, bà Y không thể trực tiếp gặp được bà L nên ngày 20/9/2018 bà Y đã yêu cầu Thừa phát lại quận Thủ Đức lập vi bằng về việc giao thông báo đòi nợ ngày 17/9/2018 tại nhà bà L địa chỉ: Số 97, đường 10, khu phố 3, phường Tam Bình, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Đã quá thời hạn 10 ngày kể từ ngày bà Y giao thông báo đòi nợ cho bà L nhưng bà L vẫn không thực hiện việc trả tiền đã vay cho bà Y nên bà Y yêu cầu bà L phải trả số tiền gốc là 200.000.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu phải trả lãi. Bà xác định số tiền này là do cá nhân bà L vay nên bà Y chỉ yêu cầu cá nhân bà L trả số tiền trên, không liên quan gì đến ai khác. Khi vay tiền bà L không có thế chấp tài sản gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hữu N có Bà Lê Thị H đại diện theo ủy quyền trình bày: Ông N là chồng bà Y, ông N thống nhất với ý kiến trình bày của bà Y do bà là đại diện, ông N xác định hiện nay bà L còn nợ số tiền là 200.000.000 đồng, ông N yêu cầu bà L trả số tiền trên ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu phải trả lãi.

Bị đơn bà Phạm Thị L có địa chỉ tại, đường A, khu phố B, phường Tam B, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí Minh mặc dù đã được Tòa án tống đạt, triệu tập các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa hôm nay:

Bà Lê Thị H là người đại diện theo ủy quyền của bà Linh Thị Minh Y và ông Trần Hữu N có đơn xin vắng mặt trong quá trình xét xử vụ án. Bà Phạm Thị L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Căn cứ đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp hợp đồng vay tài sản được quy định tại Khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn cư trú tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh nên theo điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyên đơn chỉ yêu cầu cá nhân bà Phạm Thị L phải thanh toán khoản nợ vay, do đó không cần đưa những người thân khác của bà Phạm Thị Ltham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Bà Lê Thị H có đơn xin vắng mặt trong quá trình xét xử vụ án. Bị đơn bà Phạm Thị L đã được tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt, vì vậy căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn bà Phạm Thị Lphải trả số tiền 200.000.000 đồng; Hội đồng xét xử nhận thấy:

Xét bị đơn bà Phạm Thị L đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không đến Tòa, không có lời khai, không cung cấp tài liệu chứng cứ để xác nhận hoặc phản bác yêu cầu của nguyên đơn. Do đó căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do phía nguyên đơn cung cấp cũng như biên nhận mượn tiền ngày 13/8/2015 có cơ sở xác định bà Phạm Thị L có vay của bà Y số tiền là 200.000.000 (hai trăm triệu đồng), không có lãi suất, khi nào có yêu cầu thì bà L sẽ trả hết số tiền vay.

Xét theo thỏa thuận, bà Phạm Thị L có trách nhiệm trả khi nào bà Y có yêu cầu tuy nhiên khi bà Y yêu cầu trả tiền thì bà L lại né tránh và không thực hiện việc trả nợ cho bà Y mặc dù bà Y đã có Thông báo đòi nợ ngày 17/9/2018 và đã được Văn phòng thừa phát lại quận Thủ Đức lập Vi bằng số 1841/218/VB-TPLQ.TĐ ngày 20/9/2018. Do đó, tại Tòa đại diện nguyên đơn yêu cầu cá nhân bà Phạm Thị L thanh toán số tiền gốc là 200.000.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu trả lãi là có căn cứ theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Phạm Thị L có trách nhiệm trả cho bà Linh Thị Minh Y và ông Trần Hữu N số tiền là 200.000.000 (hai trăm triệu đồng) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn là bà Phạm Thị L phải chịu án phí dân sự thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Cụ thể bà Phạm Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 200.000.000 đồng x 5% = 10.000.000 đồng.

Hoàn trả cho bà Linh Thị Minh Y tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) theo biên lai thu số 0022780 ngày 11/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thủ Đức.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 40, Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điểu 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 463, Điều 466 của Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Linh Thị Minh Y.

Buộc bà Phạm Thị L có trách nhiệm thanh toán cho bà Linh Thị Minh Y và ông Trần Hữu N số tiền là 200.000.000 (hai trăm triệu đồng) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà Linh Thị Minh Y và ông Trần Hữu N cho đến khi thi hành án xong số tiền nêu trên, hàng tháng bà Phạm Thị L còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Phạm Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 10.000.000 (mười triệu) đồng, bà Phạm Thị L chưa nộp án phí.

Bà Linh Thị Minh Y không phải chịu án phí. Hoàn lại cho bà Linh Thị Minh Y số tiền tạm ứng án phí 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) theo biên lai thu số 0022780 ngày 11/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thủ Đức.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 227/2019/DS-ST ngày 02/05/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:227/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về