Bản án 226/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VỊ THỦY, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 226/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 134/2020/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2020/QĐXXST–HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 83/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hồ Duy K, sinh năm: 1993.

Đa chỉ: ấp 05, xã T, huyện V, tỉnh Hậu Giang (có yêu cầu xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm: 1998.

Đa chỉ: ấp 05, xã T, huyện V, tỉnh Hậu Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn anh Hồ Duy K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Hồ Duy K và chị Nguyễn Thị Ngọc H tự nguyện tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn ngày 17/01/2017 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Hậu Giang. Vợ chồng chung sống với nhau được khoảng vài tháng thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, không cùng quan điểm sống, thường xuyên cự cải làm cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, anh chị đã ly thân. Anh Hồ Duy K thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Ngọc H.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Trong quá trình tiến hành tố tụng, từ khi Tòa án thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn chị Nguyễn Thị Ngọc H để tiến hành phiên họp, phiên hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do nên Tòa án không ghi được lời khai của bị đơn cũng như bị đơn không thể hiện ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn không chấp hành đúng theo giấy triệu tập của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Duy K được ly hôn với chị Nguyễn Thị Ngọc H. Về con chung, tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã thể hiện trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại tòa án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn chị Nguyễn Thị Ngọc H đã được Tòa án triệu tập, thông báo hợp lệ nhưng vắng mặt và nguyên đơn Hồ Duy K có yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình về tranh chấp ly hôn”, căn cứ theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của anh Hồ Duy K trong quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống anh Hồ Duy K và chị Nguyễn Thị Ngọc H phát sinh mâu thuẩn, từ đó vợ chồng thường bất đồng quan điểm, cự cải, không hợp nhau, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên vợ chồng đã ly thân. Trong thời gian vợ chồng ly thân, anh chị không đoàn tụ và cho đến thời điểm mở phiên tòa xét xử anh Hồ Duy K vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện được ly hôn với chị Nguyễn Thị Ngọc H. Cho thấy, nguyên nhân mâu thuẫn trong hôn nhân của vợ chồng anh chị là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, nhận thấy, yêu cầu ly hôn của anh Hồ Duy K là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Không có.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Hồ Duy K phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 9; Điều 51; Điều 53, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Duy K được ly hôn với chị Nguyễn Thị Ngọc H.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

4. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn Hồ Duy K phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được chuyển từ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 00001039, ngày 22/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang.

5. Nguyên đơn anh Hồ Duy K và bị đơn chị Nguyễn Thị Ngọc H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi nguyên đơn, bị đơn cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 226/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:226/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vị Thuỷ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về