TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 226/2018/HS-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 10 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 219/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 230/2018/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lường Văn M. Tên gọi khác: Không; sinh năm 1979, tại Điện Biên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Thái; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lường Văn P và bà: Lường Thị H; Vợ: Lù Thị Y, bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 03/6/2018 đến nay, có mặt tại phiên toà.
- Người có nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn P, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Bản C, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. (Vắng mặt không lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ ngày 03/6/2018, khi Lường Văn M đang ở nhà thuộc Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phát hiện và bắt quả tang trong khi đang có hành vi cất giữ trái phép trong túi quần bên phải đang mặc của mình 08 viên nén màu hồng và số tiền 100.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Quá trình điều tra Lường Văn M khai nhận số viên nén màu hồng đã bị thu giữ là chất Methamphetamine do M mua được của một người đàn ông dân tộc Thái (không biết tên và địa chỉ) vào thời gian khoảng 15 giờ ngày 03/6/2018, với giá 400.000 đồng được 10 viên Methamphetamine màu hồng. Mục đích M mua về để sử dụng và bán lại cho người khác kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, M cất vào túi quần đang mặc rồi đi về nhà. Khoảng 16 giờ 30 phút, M đã bán cho Lò Văn P ở bản C, xã T, huyện Đ 02 viên Methamphetamine màu hồng, thu được 100.000 đồng. Số ma túy còn lại, M cất vào túi quần bên phải của M đang mặc. Đến 17 giờ ngày 03/6/2018 thì bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ toàn bộ số ma túy cùng 100.000 đồng do M bán ma túy mà có.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 04/6/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên và bản Kết luận giám định số: 537/GĐ - PC54 ngày 13/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định 08 viên nén màu hồng thu giữ của Lường Văn M có tổng khối lượng là 0,8 gam và đều là chất ma túy loại Methamphetamine.
Tại bản Cáo trạng số 166/CT-VKSĐB ngày 28/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lường Văn M về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 251/BLHS.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử ap dụng khoản 1 Điều 251 và điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS, xử phạt bị cáo Lường Văn M từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Áp dụng điểm b, điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,8 gam Methamphetamine (Đã trích 0,19 gam gửi giám định không hoàn lại). Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng là tiền do bị cáo phạm tội mà có. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo đã xuất trình những chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đều khai nhận vào ngày 03/6/2018, bị cáo đã có hành vi mua 10 viên Methamphetamine của một người đàn ông (Bị cáo không biết tên và địa chỉ) với mục đích để sử dụng và bán lại cho người khác kiếm lời. Hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo đã bán cho Lò Văn P 02 viên Methamphetamine thu được số tiền 100.000 đồng. Số Methamphetamine còn lại (08 viên) có khối lượng là 0,8 gam đã bị lực lượng Công an phát hiện và thu giữ. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của Lò Văn P, đồng thời cũng phù hợp vơi số vật chứng đã thu giữ của bị cáo. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251/BLHS.
Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp, tội phạm mà bị cáo thực hiện đã hoàn thành. Hành vi của bị cáo đa trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm tới nền trật tự trị an, an toàn xã hội, làm lan tràn tệ nạn nghiện ma tuý trên địa bàn, đồng thời tiếp tay cho những người chuyên mua bán cac chất ma tuý tôn tai va phat triên . Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật do hành vi phạm tội của mình gây ra.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết nào tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Sau khi xem xét về hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, cần phải áp dụng một mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi của bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251/BLHS thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bản thân sử dụng ma túy, thu nhập chủ yếu từ làm ruộng; gia đình có chứng nhận hộ cận nghèo nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Vật chứng: 0,8 gam Methamphetamine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
Số tiền 100.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước theo điểm b khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm b khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
[8] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án thể hiện gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, tại phiên tòa bị cáo đã trình bày và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Hội đồng xét xử chấp nhận miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[9] Các vấn đề khác: Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do mua được của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ, vì vậy Cơ quan điều tra không xác minh, điều tra làm rõ được. Hội đồng xét xử không xem xét.
Lò Văn P là người mua ma túy của bị cáo nhưng đã sử dụng hết. Hành vi của P không cấu thành tội phạm, Công an huyện Điện Biên đã Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với P là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 251 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn M phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý".
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lường Văn M 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/6/2018.
3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106/BLTTHS, - Tịch thu tiêu huỷ 0,8 gam Methamphetamine (Đã trích 0,19 gam gửi giám định không hoàn lại).
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.
Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 04/9/2018.
4. Án phí:
- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/10/2018).
Bản án 226/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 226/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về