Bản án 225/2021/HS-ST ngày 14/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

 BẢN ÁN 225/2021/HS-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 237/2021/HSST/TLST - HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 244/2021/QĐXXST – HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Ngọc T, sinh năm 1978; Nơi cư trú: Số nhà 70 Phạm Sư M, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá:12/12; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Trần Ngọc Ứ và bà Phạm Thị Ngọc N; Có vợ Hà Thị H và có 01 con sinh năm 2008; Tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 16/11/2018 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/12/2019.

Nhân thân: Ngày 21/10/2013 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/01/2021; tạm giam ngày 05/02/2021. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa; “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30, ngày 30/01/2021, Trần Ngọc T đến khu vực gần quán Karaoke Thiên Đường ở thôn Nhân Trạch, xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp một người nam thanh niên giới thiệu tên là T (không rõ nhân thân, lai lịch), hỏi mua được của người này 03 viên thuốc lắc và 01 gói Ketamine với giá 2.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu trong người đi tìm nơi để sử dụng. Đến khoảng 18 giờ 15 phút, khi đang đứng trước tòa nhà CT2 Chung cư Xuân Mai, phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa thì bị tổ công tác đội CSĐTTP về ma túy – Công an thành phố Thanh Hóa kiểm tra. Lúc này, T đang cầm trên tay trái 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 03 viên nén màu tím (thuốc lắc) và 01 gói gói nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (ketamine), Thiện đã tự giác giao nộp cho Công an. Trần Ngọc T khai nhận đây là ma túy tổng hợp (thuốc lắc và ketamine) của T cất giấu mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác công an thành phố Thanh Hóa kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang, Trần Ngọc T khai mua của một nam thanh niên tên T (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể), cao khoảng 1m6, hơn 20 tuổi, dáng người mập, tóc ngắn tại khu vực gần quán Karaoke Thiên Đường thuộc thôn Nhân Trạch, xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa ngày 30/01/2021. Cơ quan điều tra đã xác minh tại xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương nhưng không có người nào tên T có đặc điểm nhận dạng như Thiện khai báo nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý hình sự.

Tại bản Kết luận giám định số 699/PC09 ngày 02/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, có tổng khối lượng 0,775 gam là ma túy, loại Ketamine; 03 viên nén màu tím, có tổng khối lượng 1,070 gam là ma túy, loại MDMA.

Tại bản cáo trạng số 132/CTr – VKS ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh hoá truy tố bị cáo Trần Ngọc T về tội “Tàng trữ phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh hoá luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 35 BLHS; đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù; Phạt bị cáo 5.000.000đ để nộp Ngân sách Nhà nước; Đề nghị HĐXX xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội và công nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng và không có ý kiến tranh luận, trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Công an thành phố Thanh hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, nên khoảng 17 giờ 30 ngày 30/01/2021, bị cáo đến khu vực gần quán Karaoke Thiên Đường ở thôn Nhân Trạch, xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp một người nam thanh niên giới thiệu tên là T (không rõ nhân thân, lai lịch), hỏi mua được của người này 03 viên thuốc lắc có khối lượng 1,070 gam MDMA và 01 gói Ketamine có khối lượng 0,775 gam với giá 2.000.000 đồng, khi bị cáo đi đến khu vực trước tòa nhà CT2 Chung cư Xuân Mai, phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa thì bị tổ công tác đội CSĐTTP về ma túy – Công an thành phố Thanh Hóa kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay thống nhất với lời khai trước đây bị cáo đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mua ma túy về với mục đích sử dụng của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, do bị cáo tàng trữ trái phép hai chất ma túy gồm 0,775 gam Ketamine và 1,070 gam MDMA (Tổng khối lượng hai chất ma túy trong vụ án tương đương 1,26 gam MDMA hoặc 5,04 gam Ketamine), tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của BLHS như cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, mức độ phạm tội và trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi những hậu quả rất nghiêm trọng do việc mua bán, vận chuyển, nghiện chất ma tuý gây ra. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, bị cáo hiểu rõ về tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính phòng ngừa chung.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 do bị cáo đang có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Do bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp pháp luật.

[6] Về vật chứng: Toàn bộ số ma túy được niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 1, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Trần Ngọc T 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/01/2021.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một phong bì ma túy, được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Tỉnh Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 154/THA ngày 12 tháng 5 năm 2021 giữa Công an Thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh hóa.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 225/2021/HS-ST ngày 14/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:225/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về