Bản án 225/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 225/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 286/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 259/2021/QĐ-ST ngày 12 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 262/2021/QĐ-TA ngày 15 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Bích T, sinh năm 1985;địa chỉ: Số 454A, ấp Thị 1, thị trấn C.M, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Có mặt).

Bị đơn: Anh Dương Văn T.E, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp Phú thượng 2, xã K.A, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện đề ngày 07/4/2021, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Huỳnh Thị Bích T trình bày:

- Về hôn nhân: chị và anh T.E quen biết, tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2007, vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định tại Ủy ban nhân dân xã K.A, huyện C.M vào năm 2016. Thời gian chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, anh T.E suốt ngày nhậu say sỉn, không chí thú làm ăn, thường xuyên cãi vã đánh đập chị và các con. Chị đã nhiều lần khuyên nhưng anh T. E không sửa đổi. Nhận thấy tình cảm không còn, nay chị yêu cầu ly hôn với ông T. E.

- Về con chung: có 02 con chung tên Dương Phước L, sinh ngày 27/02/2016, Huỳnh Ngọc M, sinh ngày 07/6/2008. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, không yêu cầu anh T.E cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Tại phiên hòa giải ngày 23 tháng 4 năm 2021, bị đơn Dương Văn T.E trình bày ý kiến: về quan hệ hôn nhân không đồng ý ly hôn, do còn thương vợ con. Về con chung: thống nhất vợ chồng có 02 con chung tên Dương Phước L, sinh ngày 27/02/2016, Huỳnh Ngọc M, sinh ngày 07/6/2008. Trường hợp Tòa án cho ly hôn, anh đồng ý để chị Trâm tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung, anh không có ý kiến về cấp dưỡng.

Tòa án đã dành thời gian 01 tháng để vợ chồng có thể hàn gắn, nhưng hết thời gian trên các bên không thể xóa bỏ những bất đồng, những mâu thuẩn, tuy được triệu tập đến phiên hòa giải lần hai, anh T. E vắng mặt. Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh Dương Văn T. E, bị đơn vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Các bên không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn được xác định là quan hệ tranh chấp về“Ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Dương Văn T.E, sinh năm 1983, nơi cư trú tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các thông báo, giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử, các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật cho các bên đương sự. Tại phiên tòa lần thứ nhất được mở vào ngày 15/6/2021, bị đơn vắng mặt không rõ lý do thuộc trường hợp hoãn phiên tòa. Phiên tòa được mở lại lần thứ hai ngày 30/6/2021, Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về tính hợp pháp, chị Huỳnh Thị Bích T và anh Dương Văn T.E tiến đến hôn nhân trên cơ sở tình yêu tự nguyện, tìm hiểu, không bị ai lừa dối hay ép buộc và có đăng ký kết hôn vào ngày năm 2007 tại UBND xã K.A, huyện Chợ Mới phù hợp với trích lục Giấy chứng nhận kết hôn mà chị Trâm cung cấp có trong hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân giữa chị T, anh T.E là hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.

[2.2] Về tình trạng hôn nhân, thời gian đầu cuộc sống vợ chồng giữa chị T, anh T.E hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, mối quan hệ vợ chồng trở nên căng thẳng, anh T. E cứ suốt ngày tụ tập nhậu nhẹt, say sỉn, không chí thú làm ăn, khi say thì dùng vũ lực đối với vợ con, thể hiện mâu thuẩn trầm trọng, mục đích hôn nhân không còn hạnh phúc.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến các phiên hòa giải để động viên các bên hàn gắn tình cảm, kết nối để vợ chồng có thể hòa hợp trở lại cùng chung sống với nhau. Tại phiên hòa giải ngày 23/4/2021, anh T.E đến với Tòa án với tình trạng rất say xỉn, anh không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ con. Tòa án tạo điền kiện thời gian 01 tháng để các bên hàn gắn những bất đồng, tại phiên hòa giải tiếp theo, anh T.E vắng mặt, chị T trình bày anh T.E vẫn chứng nào tật ấy, không lo chí thú làm ăn, hàng ngày đều say sỉn nên không thể hàn gắn được; anh T.E không đưa ra căn cứ, biện pháp gì nhằm cải thiện đời sống chung của vợ chồng, hiện nay vợ chồng tiếp tục tình trạng mâu thuẩn trầm trọng, không quan tâm đến vợ con, cuộc sống riêng lẻ của mỗi người, không còn mục tiêu để xây dựng một gia đình mà ở đó có sự thương yêu, quan tâm, chia sẻ lẫn nhau. Điều đó, chứng tỏ mối quan hệ vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận khởi kiện cho chị Huỳnh Thị Bích T ly hôn với anh Dương Văn T.E là phù hợp.

[3] Về con chung:

Có 02 con chung tên Dương Phước L, sinh ngày 27/02/2016, Huỳnh Ngọc M, sinh ngày 07/6/2008. Các cháu L, cháu M do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng, sống cùng với chị T vẫn phát triển bình thường về mọi mặt, sau khi ly hôn chị T có nguyện vọng nuôi các con chung và ý kiến cháu M có nguyện vọng khi cha mẹ ly hôn cháu muốn sống cùng mẹ; anh T.E cũng có ý kiến nếu ly hôn đồng ý để chị T được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, anh không tranh chấp về quyền nuôi con; anh không đề cập việc cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí:

Chị Huỳnh Thị Bích T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 273; khoản 2 Điều 227, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Các Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Bích T. Cho chị Huỳnh Thị Bích T được ly hôn với anh Dương Văn T.E.

Giấy chứng nhận kết hôn số 98, do Ủy ban nhân dân xã K.A, huyện Chợ Mới, cấp ngày 29 tháng 4 năm 2007 cho chị Huỳnh Thị Bích T và anh Dương Văn T.E, không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: giao 02 con chung tên Dương Phước L, sinh ngày 27/02/2016, Huỳnh Ngọc M, sinh ngày 07/6/2008 cho chị Huỳnh Thị Bích T được tiếp tục, chăm sóc, nuôi dưỡng; anh Dương Văn T.E không phải cấp dưỡng nuôi con.

Không bên nào được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: chị Huỳnh Thị Bích T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ từ số tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp theo biên lai thu số 0007561 ngày 07/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới; chị Huỳnh Thị Bích Trâm đã nộp xong.

5. Quyền kháng cáo: chị Huỳnh Thị Bích Trâm được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Dương Văn Tặng Em được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 225/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:225/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về