TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 224/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 14 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 430/2020/TLST - HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 236/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1985; cư trú tại ấp Đ, xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Trần Văn L1, sinh năm 1983; cư trú tại L, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Trần Văn L1 tự nguyện kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng thường bất đồng quan điểm, lối sống đã kéo dài không giải quyết được và tự sống riêng với nhau, do cuộc sống không đảm bảo hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn với anh L1.
Về con chung của chị và anh L1 có một người tên Trần Như P, sinh năm 2009 hiện đang ở cùng chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.
Về tài sản chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do điều kiện đi làm ăn xa nên chị đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt Ý kiến anh Trần Văn L1 chấp nhận ly hôn với chị Nguyễn Thị L và đồng ý giao con cho chị L nuôi, ngoài ra anh không có yêu cầu gì khác và xin vắng mặt khi giải quyết vụ án chị L.
Đối với Trần Như P là con chung của chị L và anh L1 có nguyện vọng ở cùng chị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Vụ việc theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị L được Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn L1 đều có đơn đề nghị vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị L và anh L1.
[3] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh L1 được xác lập vào năm 2009, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập có hiệu lực nên hôn nhân được xác định là hợp pháp, nay xảy ra tranh chấp Tòa án căn cứ vào những quy định về chấm dứt hôn nhân theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết.
Quá trình chung sống thường xảy ra mâu thuẫn, chủ yếu là có sự bất hòa nhau trong đời sống vợ chồng, thường không tin tưởng nhau dẫn đến cuộc sống không hạnh phúc. Hiện tại, mỗi người sống một nơi và tự xác định không thể tiếp tục sống chung với nhau nên đều thống nhất ly hôn. Xét thấy, đã có sự vi phạm nghiêm trọng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của chị L được ly hôn với anh L1 là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về nuôi con chung: Thời gian chung sống, chị L và anh L1 có một người con chung hiện đang ở cùng chị L và vẫn phát triển bình thường, sau khi ly hôn anh L1 thống nhất để chị L nuôi con. Như vậy, các đương sự đã thỏa thuận việc nuôi con và sự thỏa thuận của các đương sự không trái với quy định của pháp luật, căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận giao con cho chị L nuôi là phù hợp. Phần cấp dưỡng đương sự không yêu cầu nên không xem xét.
Anh L1 có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[5] Về chia tài sản: Các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết trong cùng vụ án.
[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; phần tạm ứng án phí chị L đã nộp được khấu trừ.
[7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị L ly hôn với anh Trần Văn L1.
Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị L được quyền nuôi con tên Trần Như P, sinh năm 2009 hiện đang ở cùng chị. Phần cấp dưỡng các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
Anh L1 có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng quyền thăm con để gây ảnh hưởng đến việc nuôi con của chị L.
Vì lợi ích của con chưa thành niên nên anh L1 có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và chị L có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Về chia tài sản: Các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết trong cùng vụ án.
Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng, chị L đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003827 ngày 09/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được khấu trừ.
Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 224/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp xin ly hôn
Số hiệu: | 224/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về