Bản án 224/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 224/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 222/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 880/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Trọng N (họ tên gọi khác: Lê Trọng N); sinh năm: 2001, tại Cà Mau; nơi ĐKHKTT: Ấp D, xã V, huyện P, tỉnh Cà Mau; Chổ ở: Sống lang thang trên địa bàn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới /tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ (cha ruột, không rõ địa chỉ), ông Ngô Nam A (cha nuôi, đã chết); bà B (mẹ ruột, không rõ họ, chữ đệm, địa chỉ), bà Lê Thị G (mẹ nuôi, còn sống); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/10/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, hiện án chưa có hiệu lực pháp luật. Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/6/2019, hiện bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác tại nhà tạm giữ Công an huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (Bị cáo có mặt).

Người đại diện theo pháp luật của bị cáo:

1. Ông Nguyễn Trường Sang - Ủy viên ban chấp hành huyện Đoàn, cán bộ huyện Đoàn Phú Tân, tỉnh Cà Mau (có mặt).

2. Bà Lê Thị G, sinh năm 1960. Nơi ĐKHKTT: Ấp D, xã V, huyện P, tỉnh Cà Mau – Là mẹ nuôi của bị cáo N (vắng mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thúy - Là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cà Mau (có mặt).

Bị hại:

1. Nguyễn Ngọc Y, sinh năm 2000 (vắng mặt).

Đa chỉ: Khóm S, phường N, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

2. Văn Thị P, sinh năm 1996 (vắng mặt).

Đa chỉ: đường L, khóm N, phường M, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Huỳnh Vũ Q (H), sinh năm 1997 (vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp D, xã V, huyện P, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 24/4/2019, Ngô Trọng N đến chơi game tại tiệm game Phượng Hoàng thuộc khóm 6, phường 5, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đến khoảng 04 giờ 30 phút ngày 25/4/2019 thì nghỉ, quan sát thấy chị Nguyễn Ngọc Y (nhân viên tiệm game) đang nằm ngủ trên võng, trên bàn để máy tính chủ có một điện thọai di động hiệu Iphone 6 đang sạc pin nên nảy sinh ý định lấy trộm để bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định, Ngô Trọng N đến bàn tháo dây sạc lấy Iphone 6 của chị Nguyễn Ngọc Y, kéo học bàn lấy số tiền mặt 2.500.000đ và một điện thoại di động Iphone 7 Plus màu bạc của chị Văn Thị P rồi bỏ đi đến tiệm game Phương Lam thuộc phường 6, thành phố Cà Mau tặng điện thoại Iphone 6 cho Trần Bảo D (là bạn của N).

Đến khoảng 05 giờ cùng ngày, chị Nguyễn Ngọc Y thức dậy phát hiện điện thoại và tiền bị lấy trộm nên kiểm tra camera an ninh của tiệm thì thấy Ngô Trọng N là người lấy trộm, vì Ngô Trọng N thường đến tiệm để chơi game nên trình báo sự việc tại Công an phường 5, thành phố Cà Mau.

Ngày 28/4/2019, sau khi đã tiêu xài hết số tiền 2.500.000đ, Ngô Trọng N đi đến xã Việt Thắng, huyện Phú Tân thì gặp anh Huỳnh Vũ Q (người cùng xã) bán điện thoại Iphone 7 Plus màu bạc, giá 800.000đ tiêu xài cá nhân, còn lại 556.000đ. Đến ngày 29/4/2019, Ngô Trọng N thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại nhà ông Nguyễn Văn Đ thì bị bắt và khai nhận có trộm cắp tài sản tại tiệm game Phượng Hoàng thuộc phường 5, thành phố Cà Mau. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau làm việc, Ngô Trọng N thừa nhận hành vi trộm cắp tại tiệm game Phượng Hoàng và tiến hành niêm phong, tạm giữ điện thoại Iphone 6, Iphone 7 Plus màu bạc và số tiền mặt 556.000đ.

Kết luận giám định số 44/KL-HĐĐG ngày 08/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định:

Tính vào thời điểm tháng 4/2019:

- 01 (một) điện thoại di động Iphone 7 Plus 128GB màu bạc, giá trị còn lại 60%: 12.690.000đ x 60% = 7.614.000đ.

- 01 (một) điện thoại di động Iphone 6 màu bạc, giá trị còn lại 40%: 6.000.000đ X 40% = 2.400.000đ.

Tng cộng 02 điện thoại giá trị: 10.014.000đ.

Vật chứng vụ án: Số tiền 556.000đ được gửi vào tài khoản Công an thành phố Cà Mau tại Kho bạc nhà nước chi nhánh tỉnh Cà Mau. Cáo trạng số 224/CT-VKS ngày 25/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Ngô Trọng N về tội “Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Ngô Trọng N theo cáo trạng số: 224/CT-VKS ngày 25 tháng 10 năm 2019 và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Trọng N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 90; Điều 91; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Ngô Trọng N từ 06 đến 09 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho chị Ngọc Y số tiền 2.500.000đ. Đối với số tiền 556.000đ tạm giữ của bị cáo đối trừ hoàn trả cho anh Q, còn lại số tiền 244.000đ buộc bị cáo bồi thường tiếp cho anh Q. Bà G có nghĩa vụ bồi thường thay cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất về tội danh, điều luật, tình tiết giảm nhẹ như đại diện Viện kiểm sát trình bày. Ngoài ra, bị cáo là người không biết chữ, nhận thức pháp luật kém nên đề nghị áp dụng tình tiết quy định tại khoản khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, kiến nghị hội đồng xét xử áp dụng hình phạt đối với bị cáo mức khởi điểm của khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo không khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, được thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên vào khoảng 4 giờ 30 phút ngày 25/4/2019, Ngô Trọng N lén lúc lấy trộm 01 điện thoại di động Iphone 6 và số tiền 2.500.000đ của chị Nguyễn Ngọc Y; 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus của chị Văn Thị P tại khóm 6, phường 5, thành phố Cà Mau với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt 12.514.000đ đúng như nội dung cáo trạng, không oan, sai. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của các bị hại cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp.

Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của các bị hại. Bị cáo biết rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân nên bị cáo đã thực hiện tội phạm hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Ngô Trọng N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ nên chấp nhận.

[3] Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, làm hoang mang trong quần chúng nhân dân về việc quản lý tài sản. Vì vậy nên cần có mức hình phạt thật nghiêm tương xứng với hành vi của bị cáo đã thực hiện để có thời gian giáo dục, sửa chữa sai lầm và trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, khi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Về vật chứng: Số tiền 556.000đ thu giữ của bị cáo là tiền bị cáo bán điện thoại cho anh Q còn lại hiện được gửi vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau tại Kho bạc nhà nước chi nhánh tỉnh Cà Mau. Xét thấy, số tiền này tiếp tục duy trì để đối trừ nghĩa vụ của bị cáo bồi thường cho anh Q, bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho anh Q số tiền 244.000đ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 21/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau trả lại hai điện thoại Iphone 6, Iphone 7 Plus màu bạc cho chị Nguyễn Ngọc Y và chị Văn Thị P. Hiện chị Ngọc Y yêu cầu hoàn trả số tiền 2.500.000đ, xét yêu cầu của chị Ngọc Y là có cơ sở nên chấp nhận, buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho chị Ngọc Y số tiền trên. Đối với anh Huỳnh Vũ Q là người mua điện thoại của bị cáo, hiện anh có yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 800.000đ. Xét yêu cầu của anh Q là có căn cứ nên buộc bị cáo hoàn trả số tiền 800.000đ cho anh Q, đối trừ 556.000đ hiện đang thu giữ, số tiền còn lại bị cáo tiếp tục bồi thường 244.000đ. Khi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi nên cha mẹ là người có trách nhiệm bồi thường thay cho bị cáo.

[7] Đối với Trần Bảo D và anh Huỳnh Vũ Q được Ngô Trọng N cho và bán điện thoại thì không biết tài sản trộm cắp mà có nên không đặt ra xử lý là phù hợp. [8] Đối với hành vi trộm cắp tài sản ngày 29/4/2019 xảy ra tại huyện Phú Tân đã được Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử ngày 30/10/2019, hiện bản án chưa có hiệu lực pháp luật nên hội đồng xét xử không tổng hợp hình phạt trong bản án này.

[9] n phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 91; Điều 101; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Ngô Trọng N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Ngô Trọng N 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ các Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự;

Buộc bị cáo Ngô Trọng N bồi thường thiệt hại cho: Chị Nguyễn Ngọc Y số tiền: 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng);

Tiếp tục duy trì số tiền 556.000đ thu giữ của bị cáo được gửi vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau tại Kho bạc nhà nước chi nhánh tỉnh Cà Mau để đối trừ bồi thường cho anh Q. Buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho anh Huỳnh Vũ Q (H) số tiền 244.000đ (Hai trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).

Bà G có nghĩa vụ bồi thường cho chị Ngọc Y, anh Q thay cho bị cáo. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án phải thanh toán xong khoản tiền nêu trên, nếu không thì còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

- Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ, án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ. Tổng số tiền án phí bị cáo phải nộp: 500.000đ. Bà G có nghĩa vụ nộp thay án phí cho bị cáo (Chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, người tham gia tố tụng có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 224/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:224/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về