Bản án 224/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 224/2019/HS-PT NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 31/12/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 172/2019/TLPT-HS ngày 02/12/2019 đối với bị cáo Lương Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: LƯƠNG VĂN T - Sinh ngày 25 tháng 01 năm 1998 - Tại Quảng Nam; Nơi cư trú: thôn P, xã Đ, huyện L, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Văn T’ và bà Bùi Thị T”(Đều còn sống); Chưa có vợ con. Tiền án; tiền sự: Không;

Về nhân thân:

+ Ngày 05/7/2019, bị TAND quận H, TP Đà Nẵng tuyên phạt 12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 24/6/2019, bị Cơ quan CSĐT Công an quận L, TP Đà Nẵng ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với T về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17/6/2019, theo lệnh tạm giam của Công an quận H, TP. Đà Nẵng - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào ngày 16/4/2019, Lương Văn T và PH Long A ngồi uống cà phê với nhau thì A rủ T vào huyện Đ đánh bạc thì T đồng ý. Do không có tiền nên T nảy sinh ý định mượn xe mô tô của anh Lê Văn Th (là bạn ngoài xã hội với T) để đem đi cầm cố lấy tiền đánh bạc. T gọi điện thoại cho anh Th hỏi mượn 01(một) xe mô tô nhãn hiệu SH 150i BKS 43E1-331.95 của anh Th và nói dối là để đi công việc nên anh Th đồng ý cho mượn và hẹn giao xe tại quán nhậu X, phường Nại Hiên Đông. Do tin tưởng T nên anh Th để luôn giấy tờ xe trong cốp xe. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, A chở T đến quán X lấy xe rồi T đem xe về phòng trọ của mình. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SH 150i BKS 43E1-331.95 đến phòng trọ của A chở A vào huyện Đ, tỉnh Quảng Nam. A chỉ T vào tiệm cầm đồ của anh Lê Nho H làm chủ để cầm cố chiếc xe mô tô nhãn hiệu SH 150i BKS 43E1-331.95. Do T không mang theo CMND nên A dùng CMND của A cùng với giấy tờ xe của anh Th để cầm cố chiếc xe này với số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Sau khi nhận tiền, T và A chia đều mỗi người 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) để đánh bạc. Sau khi đánh thua hết tiền, T quay trở lại tiệm cầm đồ gặp anh H lấy thêm 5.500.000 đồng (Năm triệu, năm trăm ngàn đồng) tiền cầm cố xe và đã tiêu xài hết.

Tại Kết luận số: 50/2019/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 21/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận S, thành phố Đà Nẵng xác định: 01(một) xe mô tô nhãn hiệu SH 150i BKS 43E1-331.95 có giá trị: 32.800.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 99/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Căn cứ: khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: ơng Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 68/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân quận H, TP Đà Nẵng buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 17/6/2019.

Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 02/11/2019, bị cáo Lương Văn T có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin được giảm nhẹ hình phạt theo trình tự phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, đồng thời bổ sung thêm nội dung kháng cáo đề nghị HĐXX xem xét lại phần quyết định tổng hợp hình phạt của Bản án số: 68/2019/HS-ST ngày 05/7/2019 do Tòa án nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng xử phạt bị cáo 12 (Mười hai) tháng tù với lý do: Bản án này đã được Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng tổng hợp buộc bị cáo phải chấp hành trước đó vào ngày 10/10/2019.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Lương Văn T có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo và hợp lệ.

Về nội dung: Xét nội dung đơn kháng cáo và nội dung bổ sung kháng cáo của bị cáo T tại phiên tòa phúc thẩm thì thấy rằng: Bản án hình sự sơ thẩm số: 99/2019/HS- ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và xử phạt bị cáo với mức án 18 (Mười tám) tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá đúng tính chất vụ án, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, qua đó xử phạt bị cáo mức hình phạt tù 18 (mười tám) tháng là không nặng. Vì vậy, đề nghị HĐXX không chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt mà giữ nguyên mức hình phạt tù do cấp sơ thẩm đã xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Về nội dung bổ sung kháng cáo tại phiên tòa: Xét Bản án số: 68/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân quận H, TP. Đà Nẵng xử phạt bị cáo 12 (Mười hai) tháng đã có hiệu lực pháp luật thi hành. Bản án này đã được Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp buộc bị cáo chấp hành chung cho cả hai Bản án là: 04 (bốn) năm tù được thể hiện tại Bản án số: 109/2019/HS-ST ngày 10/10/2019. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 212/2019/HSPT ngày 26/11/2019 Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên Bản án sơ thẩm và bản án đã có hiệu lực pháp luật thi hành. Vì vậy, việc Tòa án nhân dân quận S, TP Đà Nẵng khi xét xử sơ thẩm đối với bị cáo về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” lại tiếp tục tổng hợp 12 (mười hai) tháng tù của Bản án số: 68/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân quận H, TP. Đà Nẵng để buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 30 (Ba mươi) tháng tù là tổng hợp 02 (hai) lần của bản án, không đúng với quy định của pháp luật gây bất lợi cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận phần nội dung kháng cáo bổ sung này của bị cáo tại phiên tòa, sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lương Văn T thừa nhận: Vào ngày 16/4/2019 bị cáo đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếm đoạt của anh Lê Văn Th (là bạn ngoài xã hội với T) 01(một) xe mô tô nhãn hiệu SH 150i BKS 43E1-331.95, sau đó cùng với A mang vào thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cầm cố cho anh Lê Nho H lấy số tiền 30.550.000đ (Ba mươi triệu, năm trăm năm mươi ngàn đồng) để sử dụng vào mục đích đánh bạc và tiêu xài cá nhân. Vì vậy, bị cáo thừa nhận Bản án hình sự sơ thẩm số: 99/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là đúng người, đúng pháp luật. Bị cáo chỉ xin HĐXX xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo đối với tội danh này, đồng thời bị cáo đề nghị HĐXX xem xét lại việc Tòa án S, thành phố Đà Nẵng tổng hợp hình phạt 12 (mười hai) tháng tù của Bản án số: 68/2019/HS-ST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân quận H, TP Đà Nẵng để buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 30 (ba mươi) tháng tù, trong khi đó bản án này Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng khi xét xử bị cáo về hành vi phạm tội “ Trộm cắp tài sản’ đã tổng hợp để buộc bị cáo chấp hành.

[2] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Lương Văn T thì thấy:

[2.1] Về nội dung xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lương Văn T về hành vi “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác luôn được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội, vì vậy, việc các cơ quan tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo là nhằm răn đe, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung là phù hợp với quy định của pháp luật. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ TNHS mà bị cáo được hưởng, qua đó xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù về tội danh này là phù hợp, không nặng, tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết mới nào phát sinh.Vì vậy, HĐXX không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên mức hình phạt tù mà cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là phù hợp.

[2.2] Về nội dung kháng cáo bổ sung tại phiên tòa: HĐXX xét thấy rằng: Mức hình phạt tù 12 (mười hai) tháng tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 68/2019/HS-ST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân quận H, TP Đà Nẵng xét xử đối với bị cáo, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thi hành. Ngày 10 tháng 10 năm 2019 Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù về tội danh này, đồng thời căn cứ Điều 56 BLHS tổng hợp của Bản án nêu trên buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 04 (bốn) năm tù được thể hiện tại Bản án hình sự sơ thẩm số:109/2019/HS-ST. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 26/11/2019 Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên Bản án sơ thẩm được thể hiện tại bản án số 212/2019/HS-PT ngày 26/11/2019. Như vậy, có căn cứ xác định Bản án số 68/2019/HS-ST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân quận H, TP Đà Nẵng đã được tổng hợp và đang có hiệu lực thi hành. Vì vậy, việc Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng áp dụng điều 56 BLHS tổng hợp bản án số: 68/2019/HSST ngày 05/7/2019 của Tòa án nhân dân quận H, TP. Đà Nẵng để buộc bị cáo chấp hành chung cho cả hai bản án là tổng hợp hai lần không đúng với quy định của pháp luật gây bất lợi cho bị cáo. Do đó, HĐXX xét thấy nội dung kháng cáo này của bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận, qua đó sửa bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa là phù hợp. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật cho đúng.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lương Văn T sửa Bản án sơ thẩm.

Căn cứ: Khon 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Xử phạt: ơng Văn T 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ: Điều 56 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Tng hợp hình phạt 04 (bốn) năm tù của Bản án hình sự phúc thẩm số: 212/2019/HSPT ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, buộc bị cáo Lương Văn T phải chấp hành chung cho các bản án là 05 (năm) năm, 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 17/6/2019.

2. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 224/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:224/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về