Bản án 223/2019/HS-ST ngày 07/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 223/2019/HS-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 235/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 235/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1985 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Thôn 2, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Khu phố 6, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 10/12; con ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1960; có 03 em ruột, lớn nhất nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1995; chồng Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1980; có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án: Không; tiền sự: Quyết định số 123/2016/QĐ-TA ngày 30/5/2016, Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 01 năm 02 tháng; nhân thân: Bản án số 235/2009/HSST ngày 18/8/2009, Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh B xử phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 16/4/2014, đóng án phí xong ngày 22/9/2009; bị tạm giam ngày 24/3/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Dương Phương N, sinh năm 1983. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Phạm Hoàng Thái S, sinh năm 1995. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Hồng H sử dụng trái phép chất ma túy đá, tên khoa học là Methamphetamine từ năm 2015. Vào khoảng 17 giờ ngày 24/3/2019, Nguyễn Thị Hồng H đang ở phòng trọ của G tại dãy nhà trọ số 35, đường Nguyễn Thị Ú, khu phố Đ, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương thì T (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi vào điện thoại di động hiệu Goly G102 màu đen, sim số 0366.123.127 của H nhờ mua giùm 700.000 đồng ma túy đá. Nguyễn Thị Hồng H gọi cho T (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy đá. Nguyễn Thị Hồng H điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen, số khung RLCUE3210HY130115, số máy E3X9E305467, biển số 69F1 – 404.19 đến gần quán café Xóm Vắng 1, khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương gặp T và mua 01 gói nylon miệng kéo dính bên trong chứa 02 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá với giá 700.000 đồng. Nguyễn Thị Hồng H điều khiển xe mô tô biển số 69F1 – 404.19 đi về phòng trọ của G ngồi chơi. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Tí Nhóc gọi vào điện thoại sim số 0366.123.127 của Nguyễn Thị Hồng H hẹn đưa ma túy ở khu vực hầm đá, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Anh Dương Phương N điều khiển xe mô tô biển số 69F1 – 404.19 chở Nguyễn Thị Hồng H đi đến khu vực hầm đá thì H một mình đi gặp T để giao ma túy nhưng T không mang theo tiền nên H mang ma túy đi về. Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 24/3/2019, anh N điều khiển xe mô tô biển số 69F1 – 404.19 chở H quay lại dãy nhà trọ số 35 thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Đ tiến hành kiểm tra. Lúc này, H xuống xe bỏ chạy và ném gói nylon miệng kéo dính bên trong chứa 02 gói nylon chứa ma túy đá xuống đường thì bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng.

Theo Kết luận giám định số 263/MT-PC09 ngày 27/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 02 gói nylon hàn kín gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6159 gam, loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông tên T bán ma túy cho H và T nhờ H mua giúp ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đang tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Đối với Dương Văn N không biết việc H đi đưa ma túy cho T cũng như không biết việc H có ma túy trong người nên không xử lý hình sự.

Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen, số khung: RLCUE3210HY130115, số máy: E3X9E305467, biển số 69F1 – 404.19 qua điều tra xe mô tô do anh Trần Văn C, sinh năm 1987, địa chỉ: L, Quách Phẩm B, Đ, Cà Mau đứng tên chủ sở hữu. Hiện anh C đã đi khỏi nơi cư trú nên không làm việc được với anh C, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu.

Tại cáo trạng số 259/CT – VKS ngày 17 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hồng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng H mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy có khối lượng 0,518 gam loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định và sim số 0366.123.127; đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen, số khung RLCUE3210HY130115, số máy E3X9E305467, biển số 69F1 – 404.19 và điện thoại di động hiệu Goly G102 màu đen của bị can H.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra, người chứng kiến, người làm chứng không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 24/3/2019, tại dãy nhà trọ số 35 đường Nguyễn Thị U, khu phố Đ, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương, Công an phường Đ tiến hành kiểm tra phát hiện Nguyễn Thị Hồng H tàng trữ ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 0,6159 gam nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 259/CT – VKS ngày 17 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người sử dụng ma túy, nhân thân xấu: Bản án số 235/2009/HSST ngày 18/8/2009, Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh B xử phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 16/4/2014, đóng án phí ngày 22/9/2009 và Quyết định số 123/2016/QĐ-TA ngày 30/5/2016, Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 01 năm 02 tháng; đang nuôi 02 con nhỏ.

[7] Xử lý vật chứng:

Xét ma túy có khối lượng 0,518 gam loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và sim số 0366.123.127 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

Xét xe mô tô hiệu Sirrus màu xanh đen, số khung RLCUE3210HY130115, số máy E3X9E305467, biển số 69F1 – 404.19 do anh Trần Văn C đứng tên chủ sở hữu; cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng không được và điện thoại di động hiệu Goly G102 màu đen của Nguyễn Thị Hồng H, sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[8] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[9] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[10] Đối với người đàn ông tên T bán ma túy cho H và người đàn ông tên T đã nhờ H mua giúp ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đang tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[11] Đối với Dương Văn N không biết việc H đi đưa ma túy cho T cũng như không biết việc H có ma túy trong người nên không xử lý hình sự.

[12] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Hồng H phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy ma túy có khối lượng 0,518 gam loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định và sim số 0366.123.127;

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước xe mô tô kiểu dáng Sirrus màu xanh đen, số khung RLCUE3210HY130115, số máy E3X9E305467, biển số 69F1 – 404.19 và điện thoại di động hiệu Goly 102 màu đen (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/7/2019).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Hồng H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 223/2019/HS-ST ngày 07/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:223/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về