Bản án 222/2020/HSPT ngày 17/09/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG

BẢN ÁN 222/2020/HSPT NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 283/2020/TLPT-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Xuân T và đồng phạm về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo và của Đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2020/HS-ST ngày 25-6-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1491/2020/QĐXXPT-HS ngày 24 tháng 8 năm 2020.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Xuân T (Tín), sinh ngày 20/7/1992, tại tình Quảng Ngãi; nơi cư trú: thôn A1, xã P1, thị xã Đ (huyện Đ cũ), tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân Tr2 (Nguyễn Tr2) và bà Lê Thị Tuyết Nh; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2018 cho đến nay; bị cáo đang giam; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Xuân T: Bà Phạm Thị Kim Ph, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi, là người bào chữa theo yêu cầu của bị cáo; có mặt.

2. Họ và tên: Lê Anh G, sinh ngày 29/4/1993, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: thôn Nh1, xã H3, huyện N4, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T3 (Lê T3) và bà Trần Thị S; có vợ tên là Đặng Thị Bảo Y (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2018 cho đến nay; bị cáo đang giam; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Anh G: Bà Hồng Thị Tr3, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi, bào chữa theo Quyết định số 169/QĐ-TGPL ngày 24/6/2019 của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Quốc P, sinh ngày 25/11/1990, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: thôn H4, phường P2, thị xã Đ (xã P2, huyện Đ cũ), tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân Tr4 và bà Cao Thị O1; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: ngày 04/9/2018, bị Công an thị xã Đ xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, đến ngày 26/6/2019, bị bắt tạm giam lại cho đến nay; bị cáo đang giam; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc P có ông Trần Đức Nh, Luật sư, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Cao Ngọc H, sinh ngày 02/4/1992, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: thôn TM, phường P2, thị xã Đ (xã P2, huyện Đ cũ), tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn G và bà Lê Thị Kim H5; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, đến ngày 26/6/2019, bị bắt tạm giam lại cho đến nay; bị cáo đang giam; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Cao Ngọc H: Ông Trần Anh Th, Luật sư, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.

5. Họ và tên: Trần Hoài Tr, sinh ngày 11/11/1992, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: tổ dân phố 4, phường Nl, thị xã Đ (thị trấn Đ, huyện Đ cũ), tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: thợ sơn PU; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần N5 và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, đến ngày 26/6/2019, bị bắt tạm giam lại cho đến nay; bị cáo đang giam; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Hoài Tr: Ông Trần Đức Nh, Luật sư, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.

- Bị hại có kháng cáo:

Ông Ngô Thanh B, sinh năm 1996 (Chết); địa chỉ: thôn Nam Phước, phường Phổ Vinh, thị xã Đ (xã Phổ Vinh, huyện Đ cũ), tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại Ngô Thanh B: Ông Ngô Thanh B1, sinh năm 1965 và bà Võ Thị Th1, sinh năm 1966 (là cha, mẹ đẻ của người bị hại Ngô Thanh B); đều trú tại: thôn Nam Phước, phường Phổ Vinh, thị xã Đ (xã Phố Vinh, huyện Đ cũ), tỉnh Quảng Ngãi; có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị hại: Ông Kiều Tấn D, sinh năm 1987; trú tại: thôn A, xã B2, huyện B3, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

- Ngoài ra vụ án còn có 02 bị cáo và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 05/6/2018, Kiều Tấn D cùng với Ngô Thanh B, Nguyễn H1 và Trần Hưng Việt B4 rủ nhau đến quán karaoke ĐL thuộc Tổ dân phố 4, phường N1, thị xã Đ (thị trấn Đ, huyện Đ cũ) đế hát karaoke, cả nhóm hát tại Phòng số 1 và có gọi Trương Bích L, Bạch Thị Kim H2, Trần Thị Diễm Tri, Ngô Ngọc N2 là những nhân viên trong quán đến phục vụ. Trong quá trình hát karaoke, Kiều Tấn D có hành động dùng tay bóp ngực của Trương Bích L thì bị L cắn vào tay, D đà đánh và đuối L ra khỏi phòng.

Do bực tức hành động của Kiều Tấn D nên L điện thoại cho Nguyễn Quốc P nhờ P đánh Kiều Tấn D, P đồng ý và điện thoại rủ thêm Cao Ngọc H và Trần Hoài Tr, thì H và Tr đồng ý. Cả 03 đến gặp nhau tại trước cửa hàng xe máy ST (đoạn giao nhau giữa đường N3 - Tl). Rồi cả P, H và Tr đi đến trước Nhà thờ Tin Lành - Đ thuộc tổ dân phố 5, phường N1, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi để chờ đánh nhóm Kiều Tấn D.

Còn H2 điện thoại cho Lê Anh G nhờ đến quán karaoke ĐL đánh Kiều Tấn D nên G đồng ý và rủ thêm Nguyễn Xuân T, T đồng ý. Khi đi, G cầm 01 đôi đũa, T cầm 03 vỏ chai bia Tiger đến quán karaoke ĐL tìm đánh Kiều Tấn D. Khi đến nơi thì anh Trần Văn T2 (là chủ quán), không cho đánh nhau tại quán thì H2 bảo G và T xuống ngã ba sẽ gặp nhóm P nên G đi ra ngoài, đến chỗ dựng xe đối diện nhà ông Nguyễn Thanh Tùng lấy 03 viên gạch 06 lỗ (kích thước khoảng (17x10x08 cm) để trước baga xe và bỏ lại đôi đũa tại đây, rồi G điều khiển xe chở T đi đến ngã ba giao nhau giữa đường N3 và V1 thì dừng lại.

G cầm 01 viên gạch đứng ở mép phía Nam đường N3, còn T lấy viên gạch đập bể 02 vỏ chai bia chờ đánh Kiều Tấn D. Tại đây, G điện thoại lại cho H2 hỏi khách về chưa thì H2 nói khách đang chuẩn bị tính tiền và H2 hỏi gặp P chưa thì G trả lời chưa gặp nên H2 bảo chạy xuống một đoạn Nữa (ở ngã ba phía dưới Nhà thờ Tin Lành - Đ) sẽ gặp nhóm của P ở đó. Biết nhóm của Nguyễn Quốc P đang đứng trước Nhà thờ Tin Lành Đ nên cả hai bỏ lại 02 vỏ chai bia Tiger đã đập bể phần đít và 02 viên gạch 06 lỗ tại khu vực ngã ba N3 - V1 rồi G điều khiển xe máy tiếp tục chở T xuống gặp nhóm của P tại trước Nhà thờ Tin Lành thuộc đường N3. Khi thấy G và T chạy xe máy đến thì Tr hỏi “Phe địch hay phe ta? ”, T trả lời “Phe ta”, Tr nói tiếp “Hổ mọc thêm cánh”.

Khi nhóm Kiều Tấn D chuẩn bị tính tiền thì L điện thoại cho P mô tả đặc điểm của D. Lúc này, Tr hỏi P Tụi nó có bao nhiêu thằng?”, thì P trả lời “4 thằng, 1 thằng say, còn 3 thằng”, nghe vậy Tr nói “quân địch 3, quân ta 5, chơi được”. Đồng thời, H2 điện thoại báo cho G biết nhóm D đã ra về. Khi nói chuyện xong, P cùng H đi lên hướng Tây còn Tr, T và G đứng tại khu vực phía trước cổng chính Nhà thờ Tin Lành Đ, cách nhau khoảng 50m. G đến tiệm cửa sắt ở gần đó lấy 01 thanh sắt vuông (kích thước cạnh khoảng 2x2 cm, dài 50cm) chờ đánh nhóm Kiều Tấn D.

Lúc này tại quán karaoke Ngô Thanh B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 76H1-207.30 chở D (cả hai không đội mũ bảo hiểm, bật đèn xe chiếu sáng) chạy trên đường N3 đi từ hướng Tây sang Đông thì gặp P và H đứng chặn đường, P bước ra giữa đường giơ tay chặn xe B lại nhưng B lách qua và tiếp tục điều khiển xe chạy xuống hướng Đông (vận tốc khoảng 60km/h). T thấy vậy liền lấy 01 viên gạch 06 lỗ tại baga xe (viên gạch 06 lỗ này, G lấy trước đó ở khu vực gần quán ĐL) chạy ngược lên hướng Tây đúng dưới lòng đường (cách lề phía Nam khoảng 1,1m) đối diện với xe của B chở D, khi khoảng cách còn khoảng 10m, T ném mạnh viên gạch thẳng vào Ngô Thanh B đang điều khiển xe (ném hướng Đông Nam - Tây Bắc) làm viên gạch trúng vào vùng đỉnh thái dương bên phải của Ngô Thanh B và gò má phải của Kiều Tấn D làm B và D ngã xuống đường, chiếc xe mô tô tiếp tục chạy tự do một đoạn khoảng 50m thì ngã vào khu đất trống ở lề đường phía Nam. Sau đó, cả nhóm rời khỏi hiện trường.

Hậu quả Ngô Thanh B chết trên đường cấp cứu, Kiều Tấn D bị thương cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi đến ngày 19/6/2018 xuất viện, với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21% (hai mươi mốt phần trăm).

* Kết quả giám định:

Ngày 06/6/2018, Cơ quan CSĐT (PC02) Công an tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định trưng cầu giám định số 100/QĐ-CSĐT, yêu cầu xác định nguyên nhân chết của Ngô Thanh B và cơ chế hình thành dấu vết. Ngày 09/6/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ngãi có kết luận số 50/PY-PC54, kết luận nguyên nhân chết của Ngô Thanh B là do: Đa thương tích, chấn thương sọ não, vỡ sụp xương hộp sọ, xuất huyết não dẫn đến chết.

Ngày 28/8/2018, Phòng Giám định pháp y - Bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi có kết luận số 147/2018/GĐPY kết luận giám định pháp y về thương tích của Kiều Tấn D là 21 % (Hai mươi mốt phần trăm).

[2] Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/2020/HS-ST ngày 25 - 6 - 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Xuân T, Lê Anh G, Nguyễn Quốc P, Cao Ngọc H, Trần Hoài Tr, Trương Bích L, Bạch Thị Kim H2 phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng: điểm 1, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ 08/6/2018.

- Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Anh G 14 (muời bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ 08/6/2018.

- Áp dụng: khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc P 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 26/6/2019 và được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018.

Xử phạt bị cáo Cao Ngọc H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 26/6/2019 và được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018.

Xử phạt bị cáo Trần Hoài Tr 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 26/6/2019 và được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018.

[3] Kháng cáo:

- Ngày 03/7/2020, bị cáo Nguyễn Xuân T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 07/7/2020, bị cáo Nguyễn Xuân T có đơn kháng cáo bổ sung đề nghị Tòa án phúc thẩm xem xét lại hành vi của bị cáo khi ném gạch vào người bị hại không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh Ngô Thanh B và thương tích cho anh Kiều Tấn D.

- Ngày 03/7/2020, bi cáo Lê Anh G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 07/7/2020, bị cáo Lê Anh G có đơn kháng cáo bổ sung đề nghị Tòa án phúc thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xem xét, giảm nhẹ thêm hình phạt cho bị cáo.

- Ngày 03/7/2020, bị cáo Nguyễn Quốc P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 03/7/2020, bị cáo Trần Hoài Tr kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 03/7/2020, bị cáo Cao Ngọc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

- Ngày 09/7/2020, người đại diện hợp pháp của người bị hại Ngô Thanh B là ông Ngô Thanh BI và bà Võ Thị Th1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lê Anh G.

- Ngày 09/7/2020, người đại diện hợp pháp của người bị hại Ngô Thanh B là ông Ngô Thanh B1 và bà Võ Thị Th1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Hoài Tr.

- Ngày 10/7/2020, người đại diện hợp pháp của người bị hại Ngô Thanh B là ông Ngô Thanh B1 và bà Võ Thị Th1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Quốc P.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm

- Các bị cáo giữ nguyên đơn kháng cáo;

- Đại diện hợp pháp cho bị hại Ngô Thanh B giữ nguyên kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nang tham gia phiên tòa có ý kiến Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về nội dung: đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân T, Nguyễn Quốc P, Cao Ngọc H, Trần Hoài Tr; chỉ chấp nhận kháng cáo của Lê Anh G và kháng cáo của Đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho Lê Anh G, sửa một phần án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Lê Anh G.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền và các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của các bị cáo và đại diện hợp pháp cho người bị hại Ngô Thanh B đều hợp lệ.

[2] Về hành vi phạm tội: vào lúc 20 giờ ngày 05/6/2018, Kiều Tấn D, Ngô Thanh B, Nguyễn H1, Trần Hưng Việt B4 đến quán karaoke ĐL thuộc Tổ dân phố 4, phường N1, thị xã Đ (thị trấn Đ, huyện Đ cũ), tỉnh Quảng Ngãi để hát karaoke và có gọi nhân viên của quán là Trương Bích L, Bạch Thị Kim H2, Trần Diễm Trl, Ngô Ngọc N2 vào phòng hát karaoke để phục vụ. Trong lúc cả nhóm đang hát, Kiều Tấn D đã dùng tay bóp vào vùng ngực của Trương Bích L thì bị L cắn vào tay, D đánh và đuổi L ra khỏi phòng. Bực tức vì hành động của D nên L điện thoại cho Nguyễn Quốc P nhờ P đánh dằn mặt Kiều Tấn D. P rủ thêm Cao Ngọc H, Trần Hoài Tr cùng đi chặn đường đánh D. Cùng lúc này, Bạch Thị Kim H2 cũng điện thoại nhờ Lê Anh G đánh Kiều Tấn D, G rủ thêm Nguyễn Xuân T cùng đi đánh nhau.

Đến khoảng 23 giờ ngày 05/6/2018, sau khi nhóm của Kiều Tấn D hát karaoke xong, tính tiền ra về thì Ngô Thanh B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 76H1-20730 chở D về, khi xe chạy cách cổng nhà thờ Tin Lành Đ khoảng 50m thì P ra giữa đường dang tay cản xe mô tô lại để đánh nhưng Bản lách xe qua một bên và tiếp tục điều khiển xe được một đoạn đến trước cổng nhà Thờ Tin Lành thì bị T đón đầu và cầm 01 viên gạch 06 lỗ ném mạnh vào người, làm Ngô Thanh B đang điều khiển xe và Kiều Tấn D ngồi sau cùng ngã xuống đường. Hậu quả anh Ngô Thanh B chết do chấn thương sọ não, Kiều Tấn D thương tích 21%.

[3] Xét các kháng cáo:

[3.1] Đối với Nguyễn Xuân T: Bị cáo là người thực hành tích cực trong vụ án, bị cáo tuy không quen biết, không có mâu thuẫn gì với những người bị hại Ngô Thanh B, Kiều Tấn D nhưng đêm ngày 05/6/2018, bị cáo đang ngồi ăn nhậu với Lê Anh G, G rủ bị cáo đi đánh dằn mặt anh D thì T đồng ý. Khi đi đánh anh D, bị cáo chuẩn bị hung khí là gạch 6 lỗ, khi thấy anh B điều khiển xe mô tô chở anh D đi đến trước nhà thờ Tin Lành Đ thì bị cáo ra giữa đường cầm gạch 6 lỗ ném thẳng về phía xe mô tô anh B đang điều khiển xe mô tô tham gia giao thông, làm cho xe ngã xuống đường.

Kháng cáo của bị cáo cho rằng bị cáo dùng gạch ném về phía xe mô tô của anh B chỉ nhằm mục đích chặn xe mô tô của anh B lại để đánh dằn mặt chứ bị cáo không cố ý nhắm vào vùng đầu của anh B và anh D. Tuy nhiên, bị cáo đã có hành vi dùng viên gạch có 06 lỗ ném về phía anh Ngô Thanh B và anh Kiều Tấn D đang điều khiển xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ đang tham gia giao thông với tốc độ cao thì hoàn toàn có khả năng làm cho xe mô tô ngã xuống đường dẫn đến chết nguời; hậu quả đã xảy ra từ hành vi ném gạch này làm xe mô tô đang chạy bị ngã và làm anh B chết, Kiều Tấn D thương tích 21%. Bị hại B chết do đa chấn thương trong lúc xe đang chạy bị ngã. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T và các bị cáo khác đều cũng khẳng định sau khi B và D bị ngã thì các bị cáo đều ra về, không có bị cáo nào tác động đến thân thể các bị hại này Nữa, phù hợp với diễn biến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm và các Biên bản ghi lời khai có trong hồ sơ vụ án. Như vậy thương tích của các bị hại là do việc bị ném viên gạch trúng vào người và quá trình ngã từ trên xe xuống, trong khi xe mô tô đang chạy. Do đó, Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Giết người” với 02 tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “có tính chất côn đồ” và “bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” quy định các điểm 1, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

Xét yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thấy bị cáo Nguyễn Xuân T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; đã tác động gia đình bồi thường 10.000.000 đồng cho người bị hại Kiều Tấn D, 10.000.000 đồng cho gia đình người bị hại Ngô Thanh B; sau đó bị cáo tiếp tục nộp 5.000.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đ để khắc phục một phần thiệt hại; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự; sau khi xảy ra sự việc bị cáo đã ra đầu thú; người bị hại Kiều Tấn D và người đại diện hợp pháp của người bị hại Ngô Thanh B xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đã được Bản án sơ thẩm áp dụng đầy đủ. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có giấy xác nhận của đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Thanh B về việc gia đình bị cáo đã nộp đủ số tiền mà bản án sơ thẩm quy trách nhiệm cho bị cáo phải bồi thường tổng cộng là 60.136.000 đồng; tuy nhiên do bị cáo phạm tội với 02 tình tiết định khung tăng nặng, hậu quả 01 người chết 01 người bị thương 21% so với mức hình phạt 17 năm tù là có phần nhẹ, nên HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ thêm hình phạt của bị cáo.

[3.2] Đối với Lê Anh G: Bị cáo là người rủ rê bị cáo T trong vụ án đi đánh nhau và sau đó T là người thực hành chính, tích cực nhất gây nên cái chết của bị hại. Bị cáo cùng với Nguyễn Xuân T chuẩn bị hung khí gồm viên gạch có sáu lỗ, vỏ chai bia đến đoạn đường trước nhà thờ Tin Lành cùng với nhóm của Nguyễn Quốc P thống nhất chặn đường cùng nhau đánh anh D. Khi bị cáo thấy T lấy gạch ném khiến anh D và anh B ngã ra đường, anh B chết, anh D bị thương tích 21% thì bị cáo bảo cả nhóm bỏ đi, mặc hậu quả xảy ra. Do đó bản án sơ thẩm quyết định bị cáo Lê Anh G về tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “có tính chất côn đồ” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường 10 triệu đồng cho người bị hại Kiều Tấn D và 10 triệu đồng cho gia đình người bị hại Ngô Thanh B, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị cáo tiếp tục nộp 05 triệu đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đ; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo; đã có thời gian đi nghĩa vụ quân sự; bị cáo đầu thú khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình; người bị hại Kiều Tấn D và người đại diện hợp pháp của người bị hại Ngô Thanh B xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đã được Bản án sơ thẩm áp dụng. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo được gia đình bị hại Ngô Thanh B xác nhận đã nộp đủ các khoản bồi thường còn lại theo Bản án sơ thẩm là 40.000.000 đồng (35.000.000 đồng tiền mặt và 05 triệu nộp Thi hành án dân sự), tuy nhiên với hành vi của bị cáo chủ động rủ đi đánh bị hại và hậu quả 01 người chết 01 người bị thương 21% so với mức hình phạt 14 năm tù là có phần nhẹ, nên HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và của đại diện hợp pháp cho người bị hại về xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo G.

[3.3] Đối với Nguyễn Quốc P, Cao Ngọc H, Trần Hoài Tr: các bị cáo P, H, Tr đều khai nhận P là người đã rủ rê Cao Ngọc H, Trần Hoài Tr cùng đi đánh anh D. Khi gặp xe mô tô của anh B đang điều khiển thì Nguyễn Quốc P ra giữa đường chặn xe mô tô của anh B lại nhưng không được, còn bị cáo Trần Hoài Tr, Cao Ngọc H lúc đó có mặt bên cạnh Nguyễn Quốc P. Do đó, bản án sơ thẩm đã quyết định các bị cáo Cao Ngọc H, Trần Hoài Tr, Nguyễn Quốc P phạm tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần hậu quả cho người bị hại Ngô Thanh B và Kiều Tấn D; người bị hại Kiều Tấn D và người đại diện hợp pháp của người bị hại Ngô Thanh B cùng xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đã được Bản án sơ thẩm áp dụng.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo H cung cấp thêm Biên lai nộp tiền án phí hình sự và dân sự sơ thẩm số tiền 1.050.000 đồng và Biên lai tạm thu tiền bồi thường thiệt hại cho bị hại Kiều Tấn D số tiền 4.000.000 đồng. Bị cáo Trần Hoài Tr được gia đình bị hại Ngô Thanh B xác nhận đã bồi thường thêm 15.000.000 đồng theo Bản án sơ thẩm và tiếp tục bãi nại cho bị cáo. Bị cáo Nguyễn Quốc P được gia đình bị hại Ngô Thanh B xác nhận đã bồi thường thiệt hại thêm đầy đủ theo Bản án sơ thẩm và tiếp tục bãi nại cho bị cáo; đồng thời bị cáo P cung cấp các Giấy khen về thành tích tham gia hoạt động thể thao tại địa phương, Giấy khen của cha bị cáo là ông Nguyễn Xuân Trúc về các thành tích tham gia các P trào ở địa phương. Tuy nhiên các tài liệu, chứng cứ mới này là những tình tiết giảm nhẹ đã được Bản án sơ thẩm áp dụng và đã xử các bị cáo mức khởi điểm của khung hình phạt, bị cáo P phải có hình phạt cao hơn bị cáo H và Tr, nên HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của 03 bị cáo và của Đại diện hợp pháp cho người bị hại B về xin giảm nhẹ hình phạt cho Trần Hoài Tr, Nguyễn Quốc P. Bị cáo H bị xử phạt 07 năm tù và không được giảm nhẹ nên không đủ điều kiện để xem xét cho hưởng án treo.

[6] Về án phí: các bị cáo có kháng cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

Đối với việc tạm thu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm 1.050.000 đồng tại Biên lai thu số 08504 ngày 19/9/2020 và số tiền tạm thu của bị cáo Cao Ngọc H để bồi thường cho Kiều Tấn D 4.000.000 đồng theo Biên lai thu số 08503 ngày 16/9/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi, là các khoản mà bị cáo H tự nguyện thi hành Bản án hình sự sơ thẩm, nay Bản án phúc thẩm giữ nguyên Bản án sơ thẩm nên Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý theo thẩm quyền.

[7] Về trách nhiệm dân sự do không có kháng cáo, kháng nghị nên HĐXX phúc thẩm không xem xét. Đối với các khoản bồi thường dân sự mà người đại diện hợp pháp cho bị hại Ngô Thanh B có Giấy xác nhận đã tự nguyện bồi thường là việc tự thỏa thuận thi hành bản án hình sự sơ thẩm, do tại phiên tòa phúc thẩm những người ghi giấy xác nhận này không có mặt để kiểm chứng, nên sự việc được điều chỉnh theo Luật Thi hành án dân sự tại giai đoạn Thi hành án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân T, Lê Anh G Nguyễn Quốc P, Cao Ngọc H, Trần Hoài Tr; không chấp nhận các kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại Ngô Thanh B là ông Ngô Thanh B1 và bà Võ Thị Th1 về việc xin giảm nhẹ hình phạt cho Lê Anh G, Nguyễn Quốc P, Trần Hoài Tr; giữ nguyên hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm.

2. Tội danh và hình phạt của các bị cáo có kháng cáo được nêu lại như sau:

- Áp dụng: điểm l, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 17 (mười bảy) năm tù về tội “Giết người ”; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ 08/6/2018.

- Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lê Anh G 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ 08/6/2018.

- Áp dụng: khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc P 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 26/6/2019 và được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018.

Xử phạt bị cáo Cao Ngọc H 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 26/6/2019 và được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018.

Xử phạt bị cáo Trần Hoài Tr 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 26/6/2019 và được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2018 đến ngày 16/6/2018.

3. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Xuân T, Lê Anh G, Nguyễn Quốc P, Cao Ngọc H, Trần Hoài Tr mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2020/HSPT ngày 17/09/2020 về tội giết người

Số hiệu:222/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về