Bản án 222/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 222/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 233/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 224/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn T, sinh năm 1995 tại tỉnh Hậu Giang; địa chỉ thường trú: Ấp 2, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang; chỗ ở hiện tại: Khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; con ông Trần Hoàng E, sinh năm: 1975 và bà Lữ Thị Tuyết N, sinh năm: 1977; có 03 anh em lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 22/8/2019 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Văn H, sinh năm 1995 tại tỉnh Kiên Giang; địa chỉ thường trú: Ấp H, xã L, huyện H, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở hiện tại: Khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 5/12; con ông Trần Văn T, sinh năm: 1968 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1969; có 04 anh chị em, lớn nhất không rõ năm sinh nhỏ nhất là bị cáo; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 22/8/2019 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 30 phút ngày 21/8/2019, tại khu vực phía trước nhà hàng S trên đường N1 thuộc khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp Công an phường T tuần tra thấy Trần Văn H đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 68D1-409.82 chở Trần Văn T có biểu hiện nghi vấn nên lực lượng công an tiến hành yêu cầu H dừng xe để kiểm tra hành chính thì phát hiện, bắt quả tang Trần Văn T đang cầm trong lòng bàn tay phải 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. T khai nhận đó là ma túy đá. Lực lượng công an tiến hành thu giữ tang vật và mời đối tượng về trụ sở làm việc.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng đồng, sim số 0363.888.258 của Trần Văn H.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro màu xanh, đen sim số 0399.195.016 của Trần Văn T.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 68D1-409.82, số khung: RLCUG0610HY513605, số máy: G3D4E536424 của Trần Văn H, do Hđứng tên chủ sở hữu.

Sau đó, lực lượng công an tiến hành thu giữ tang vật và mời đối tượng về trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan điều tra, T và H khai nhận: T và H là bạn bè quen biết với nhau và cùng là đối tượng sử dụng ma túy. Nguồn ma túy mà T và H có để sử dụng là được bạn bè ngoài xã hội cho sử dụng và mua nhiều lần của đối tượng H (không rõ lai lịch) ở khu công nghiệp Mthuộc phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 21/8/2019, T, H cùng M và P (đều không rõ lai lịch) uống rượu tại quán ốc trên đường D13 thuộc khu phố 6, phường Tthị xã B, tỉnh Bình Dương. Sau khi uống rượu xong, H đi về nhà bạn của H uống rượu tiếp, còn lại T, M, P cùng nhau bàn bạc thống nhất mua ma túy đem về sử dụng tại phòng trọ của P. Sau đó, M chở T đến khu công nghiệp M tìm, gặp và mua được 01 gói ma túy đá của H với giá 200.000 đồng đem về trọ của P để cùng sử dụng. Tại đây, T điện thoại rủ H đến phòng trọ của P để cùng sử dụng ma túy, H đồng ý nên điều khiển xe mô tô hiệu Exciter biển số 68D1-409.82 chở theo N (không rõ lai lịch) là bạn của H đến và cùng nhau sử dụng gói ma túy đá mà M vừa mua được.

Sau khi sử dụng hết số ma túy vừa mua, M đi về trước còn lại T, P, H và N ở lại phòng. Lúc này, P bàn bạc cùng T mua thêm ma túy đem về tiếp tục sử dụng và rủ H tham gia nhưng H không có tiền nên không đồng ý. Sau khi thống nhất, P điện thoại cho H hỏi mua thiếu 500.000 đồng ma túy đá, H đồng ý và hẹn giao dịch tại khu vực siêu thị cũ thuộc khu phố 4, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương đồng thời dặn khi nào đến thì gọi lại cho H để lấy ma túy. Sau đó, P đưa số điện thoại của H cho T để khi đến điểm hẹn thì liên lạc H lấy ma túy. Do không có xe nên T nhờ H chở đi mua ma túy và hứa cho H sử dụng miễn phí nên H đồng ý. H điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 68D1-409.82 của H chở T đến khu vực siêu thị cũ trên đường NA9, khu phố 4, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương thì dừng lại bên đường để T dùng điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro màu xanh đen, sim số 0399.195.016 gọi cho H thông báo đã đến điểm hẹn. H kêu T chờ bên lề đường sẽ có người thay H đến bán ma túy nên T cùng H ngồi trên xe chờ. Khoảng 10 phút sau, có một đối tượng không rõ lai lịch đến giao cho T 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, T cầm trong lòng bàn tay phải và tiếp tục ngồi sau xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 68D1-409.82 để H chở quay về phòng trọ của P để tiếp tục sử dụng. Đến 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi H chở T đến khu vực trước nhà hàng S trên đường N1 thuộc khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số ma túy nêu trên.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn T và Trần Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị can phù hợp với chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Theo Kết luận giám định số 648/MT-PC09 ngày 29/8/2019 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,1142 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng: 0,0694 gam Methamphetamine.

Đối với đồ vật không liên quan đến vụ án, ngày 11/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát xử lý vật chứng giao trả cho Trần Văn H 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng đồng cùng sim số 0363.888.258.

Đối với các đối tượng N và P, Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 254/CT-VKS ngày 14/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trần Văn T và Trần Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trần Văn T và Trần Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Bì thư dán kín số 648/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,0694 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 648/MT-PC09 ngày 29/8/2019); 01 (một) sim số 0399195016 (không kiểm tra được số sim, siri số 8984048000035216892).

Đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Pro màu xanh đen (IMEI 353318/09727903/7); 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Exciter biển số 68D1-409.82, số khung: RLCUG0610HY513605, số máy: G3D4E536424 (xe không gương, không chìa khóa, không kiểm tra được tình trạng máy móc của xe).

Các bị cáo Trần Văn T và Trần Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, nội dung bản Cáo trạng số: 254/CT-VKS ngày 15/11/2019 và Kết luận giám định số 648/MT-PC09 ngày 29/8/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Tại phiên tòa, các bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo Trần Văn T và Trần Văn H đã thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:

Lúc 23 giờ 30 phút, ngày 21/8/2019 tại khu vực phía trước nhà hàng S trên đường N1 thuộc khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, Trần Văn H có hành vi điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 68D1-409.82 chở Trần Văn T đi mua 0,1142 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện thu giữ. Khi bị phát hiện, H đang điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter biển số 68D1-409.82 chở T, T ngồi sau đang cầm 0,1142 gam Methamphetamine trong lòng bàn tay phải. Hành vi điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter biển số 68D1-409.82 chở T đi mua 0,1142 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng của H và hành vi cất giấu 0,1142 gam Methamphetamine trong lòng bàn tay phải nhằm mục đích sử dụng của T đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3 Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Ma túy không chỉ huỷ hoại sức khoẻ con người mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (methamphetamine) để sử dụng của các bị cáo là hết sức nguy hiểm, không những xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của ma túy đối với con người và xã hội, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện thái độ thiếu ý thức, liều lĩnh, xem thường pháp luật của các bị cáo. Do đó, cần phải có một mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo để bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình, xã hội và có ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi phạm tội của các bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khung hình phạt nên chỉ xét xử ở khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, bị cáo Trần Văn T có ông ngoại là người có công với cách mạng nên còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về vai trò: Các bị cáo phạm tội ở mức độ đồng phạm giản đơn. Bị cáo T là người khởi xướng, rủ rê bị cáo H cùng thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo H tuy bị rủ rê nhưng tích cực thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng đồng chứa sim số 0363.888.258 không liên quan đến vụ án. Ngày 11/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát xử lý vật chứng giao trả cho Trần Văn H là phù hợp.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Exciter biển số 68D1-409.82, số khung: RLCUG0610HY513605, số máy: G3D4E536424 của Trần Văn H và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Pro màu xanh đen của Trần Văn T: Đây là công cụ, phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 (một) Bì thư dán kín số 648/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,0694 gam Methamphetamine: Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ và lưu hành nên cần phải tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 (một) sim số 0399 195 016: Đây là công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần phải tịch thu, tiêu hủy.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Văn T;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Văn H;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn T và Trần Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 22/8/2019.

Xử phạt bị cáo Trần Văn H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 22/8/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) Bì thư dán kín số 648/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,0694 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 648/MT-PC09 ngày 29/8/2019);

+ 01 (một) sim số 0399195016 (không kiểm tra được số sim, siri số 8984048000035216892).

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Pro màu xanh đen (IMEI 353318/09727903/7);

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Exciter biển số 68D1-409.82, số khung: RLCUG0610HY513605, số máy: G3D4E536424 (xe không gương, không chìa khóa, không kiểm tra được tình trạng máy móc của xe).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/12/2019 tại Chi cục Thi hành dân sự thị xã Bến Cát)

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Trần Văn T và Trần Văn H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:222/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về