Bản án 222/2019/HSST ngày 21/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 222/2019/HSST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 227/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 879/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/ Họ tên: Nguyễn Văn Q; sinh ngày 31/5/2002, tại C; Nơi ĐKNKTT: Không. Chỗ ở hiện nay: Sống lang thang trên địa bàn phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bé a (đã chết) và bà Trần Thị Đ; vợ: Nguyễn Phú M; Con: 01 người; Tiền sự: Không, tiền án: Không. Nhân thân:

Tại bản án số 227/2018/HSST ngày 30/11/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 10/4/2019. Chưa chấp hành phần án phí. Bắt tạm giữ ngày 12/9/2019 chuyển tạm giam từ ngày 15/9/2019 đến nay (có mặt).

2/ Họ tên: Nguyễn Văn K, sinh năm 1971, tại C; nơi cư trú: Khóm H, phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; vợ: Trần Ngọc M; con: 04 người con; tiền án, tiền sự: Không. Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/6/2019 đến nay (có mặt).

- Bị hại: Ông Huỳnh Ngọc L, sinh năm 1966; Nơi cư trú: Số 215, LTT, khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn Q:

Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1958; Nơi cư trú: Không nơi cư trú ổn định (bà Đ từ chối giám hộ cho bị cáo Q – vắng mặt) Đại diện phường đoàn phường T, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau: Ông Trương Hữu T – Bí thư đoàn phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Q: Bà Quách Ngọc L là luật sư, trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cà Mau (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ ngày 07/5/2019, Nguyễn Văn Q đi bộ tại dốc cầu Phan Ngọc Hiển thuộc phường 4, thành phố Cà mau thì gặp Bùi Văn V. Khi thấy V, Q kêu lại và rủ V đi trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài, V đồng ý. Đến khoảng 00 giờ ngày 08/5/2019, Q và V đi đến đoạn đường Lý Thái Tôn thuộc khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau phát hiện nhà của ông Huỳnh Ngọc đang sửa chữa không ai trông coi nên V kêu Q lẻn vào nhà ông Lđể lấy trộm tài sản, còn V đứng bên ngoài canh đường. Sau đó, V đỡ Q leo qua hàng rào, sau khi vào được nhà ông L, Q đã lén lút lấy trộm 01 màn hình vi tính hiệu AOC màu đen, 24 inch chuyền ra ngoài cho V và Q leo rào ra bên ngoài.

Sau khi lấy trộm tài sản, V và Q đến hẻm Y tế thuộc khóm 2, phường 9 thành phố Cà Mau mượn xe mô tô biển số 69AA- 036.04 của Phan Chính H là bạn của V và điều khiển xe chỡ Q đến nhà Nguyễn Văn K thuộc khóm 2, phường 8, thành phố Cà Mau. Khi đến nhà K thì Q xuống xe, ôm theo màn hình máy tính đi vào trong nhà gặp K nhờ K bán dùm tại sản vừa trộm được. K biết tài sản này do Q trộm cắp mà có nên không đồng ý bán dùm mà chỉ đồng ý cất giữ dùm để hôm sau Q và V đem bán. Khi Khởi đang mang tài sản đi cất giấu thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và mời về trụ sở làm việc.

Tang vật thu giữ gồm 01 màn hình vi tính hiệu AOC màu đen, 24 inch; 01 xe mô tô biển số 69AA – 036.04.

Theo kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐ ngày 17/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:

Tính vào thời điểm tháng 5/2019: 01 màn hình vi tính hiệu AOC, màu đen 24 inch giá trị còn lại 80%: 2.700.000 đồng x 80% = 2.160.000 đồng. Quá trình điều tra Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 227/CT-VKS ngày 31/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Phú Q về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng truy tố: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản” Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 91, 101 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q từ 05 tháng đến 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 03 tháng đến 06 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Huỳnh Ngọc L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Q trình bày lời bào chữa: Đồng ý với cáo trạng của Viện kiểm sát nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đối với nhân thân bị cáo trình độ học vấn thấp, thiếu sự quan tâm, giáo dục của cha mẹ và đề nghị áp dụng tình tiết đối với người chưa thành niên để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn K thừa nhận hành vi phạm tội, về trách nhiệm hình sự bị cáo yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng.

Đối với sự vắng mặt của người bị hại và do Trần Thị Đ là người đại diện hợp pháp cho bị cáo Q từ chối giám định cho bị cáo Q nên vắng mặt, Tòa án đã yêu cầu Ủy ban nhân dân phường T cữ người giám hộ cho bị cáo Q. Hội đồng xét xử xét thấy việc vắng mặt của ông L và bà Đ không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án và không ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo Q nên căn cứ theo quy định tại điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại và bà Đ theo quy định.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Q thừa nhận: Vào khoảng 00 giờ ngày 08/5/2019, tại số nhà 215, LTT, khóm 6, phường 2, thành phố Cà Mau bị cáo Nguyễn Văn Q đã cùng với Bùi Văn V đã có hành vi trộm cắp 01 màn hình máy tính hiệu AOC, màu đen của ông Huỳnh Ngọc Lâm với giá trị tài sản là 2.160.000 đồng và bị cáo Nguyễn Văn K thừa nhận biết màn hình vi tính là do bị cáo Q trộm được nhưng vẫn đồng ý cất giấu cho bị cáo Q. Mục đích cất giấu là để hôm sau bị cáo Q và V bán lấy tiền tiêu xài.

[3] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là có cơ sở để chấp nhận, bởi lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được và nhiều tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn Q do bản thân lười lao động nhưng muốn có tiền nên bị cáo đã cùng với Bùi Văn V đã lén lút lấy trộm tài sản của người khác nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Sau khi trộm được bị cáo đã cùng với V đem về nhà Nguyễn Văn K nhờ bán dùm nhưng bị cáo Khởi không bán mà đồng ý cất giữ dùm. Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn Q đã cùng Bùi Văn V lợi dụng việc sơ hở trong quản lý tài sản của bị hại đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 màn hình vi tính hiệu AOC 24 inch, màu đen. iá trị bị cáo Quý chiếm đoạt theo kết luận định giá tài sản là 2.160.000 đồng. Hành vi của bị cáo Q đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn K trong vụ án này bị cáo tuy không hứa hẹn trước với bị cáo Q về việc chứa chấp tài sản do bị cáo Q cùng với V phạm tội mà có nhưng bị cáo biết rõ tài sản mà bị cáo Q đem về là do trộm cắp mà có. Khi bị cáo Q nhờ bán và cất giữ dùm bị cáo đã đồng ý cất giữ để hôm sau bị cáo Q với V bán tài sản. Khi đang tiến hành cất giấu tài sản thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Về tính chất, mức độ và động cơ phạm tội và nhân thân của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện tính xem thường pháp luật chỉ vì muốn có tiền tiêu xài, lười lao động các bị cáo đã cố ý phạm tội, gây nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, gây lo lắng trong quần chúng, nhân dân. Về nhân thân bị cáo Q đã từng bị Tòa án kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong vào ngày 10/4/2019 nhưng do tại thời điểm kết án bị cáo chưa thành niên nên không tính tiền án và không áp dụng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo. Sau khi chấp hành án xong bị cáo lại tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo không biết sửa chữa bản thân và xem thường pháp luật. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi của các bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản phạm tội đã được thu hồi trả cho bị hại và hành vi phạm tội của các bị cáo chưa gây thiệt hại cho bị hại nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đề giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Q theo quy định. Đối với bị cáo Khởi phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng điểm h,i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự áp để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Khởi theo quy định.

Do bị cáo Khởi có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên xét thấy cần áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cho bị cáo cũng đảm bảo được tính răn đe và giáo dục bị cáo, đồng thời thể hiện được chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải.

Đối với bị cáo Q tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên nên Hội đồng xét xử có xem xét việc áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên cho bị cáo để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo.

[4] Đối với Bùi Văn V tham gia trộm cắp cùng với Nguyễn Văn Q. Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau đã ra quyết định khởi tố bị can và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Đến giai đoạn truy tố thì V bỏ trốn, hiện cơ quan điều tra đang truy nã và ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với Bùi Văn V khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng: Đối với xe mô tô biển số 69AA-036.04, qua xác minh là xe của Phan Chính H. Việc V và Q mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội H không biết nên ngày 20/5/2019 Cơ quan điều tra đã trả xe lại cho Phan Chính H là phù.

Đối với 01 màn hình máy tính hiệu AOC màu đen, 24 inh là của ông Huỳnh Văn L. Ngày 20/5/2019, Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau đã trả lại cho ông L là phù hợp.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 91, 101 Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 12/9/2019.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng – chưa nộp) nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo Q, người đại diện hợp pháp cho bị cáo Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông L, bà Đ vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2019/HSST ngày 21/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:222/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về