Bản án 222/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 222/2019/HS-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 245/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 221/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Chí Đ, sinh năm 1989. Tại: B. Nơi ĐKHKTT: Thôn 3, xã L, huyện P, tỉnh B. Chỗ ở: Căn hộ A4.5.25, khu nhà ở A, khu 1, phường H, thành phố T, tỉnh B. Trình độ học vấn: 01/12; Nghề nghiệp: không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Cha (không rõ nhân thân, lai lịch); Mẹ Nguyễn Thị V; bị cáo có vợ là Phan Thị Q; bị cáo có 01 con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 12/9/2012, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 16 (mười sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 156/2012/HSPT; bị cáo bị bắt ngày 11/5/2019 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ, ngày 11/5/2019 Nguyễn Chí Đ đi làm về thì nảy sinh ý định đi mua ma túy về sử dụng nên Đ mượn xe mô tô (Không rõ biển số) của người bạn quen biết ngoài xã hội (Không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) chạy xuống vòng xoay thành phố mới, thuộc thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương rồi dùng điện thoại của Đ có số thuê bao 0988.597.XXX điện thoại cho người bán ma túy tên L (Không rõ họ tên và địa chỉ cư trú) có số điện thoại 0942.498.XXX nhưng L không nghe máy nên Đ tiếp tục điện thoại cho một người bạn tên H có số thuê bao 0971.659.XXX quen biết ngoài xã hội (không rõ họ tên và địa chỉ cư trú) để nhờ H điện thoại cho L mua giùm số tiền 150.000 (Một trăm năm mươi nghìn) đồng. Sau đó, Đ đứng chờ khoảng 05 phút thì L chạy xe mô tô (Không rõ biển số) tới, Đ đưa cho L số tiền 150.000 (Một trăm năm mươi nghìn) đồng. L cầm tiền rồi chỉ Đ chỗ quăng ma túy gần đó, Đ đi lại chỗ L quăng ma túy và nhặt lên cầm trên tay trái rồi điều khiển xe mô tô chạy về và cất giấu ma túy trong một vườn cao su gần chỗ Đ làm việc. Đến khoảng 22 giờ ngày 11/5/2019, Đ đi bộ ra vườn cao su lấy gói ma túy cất giấu vào túi áo khoác bên phải Đ đang mặc rồi đi bộ ra đường lộ và điện thoại cho H để mượn H bộ dụng cụ sử dụng ma túy thì H đồng ý. Đ đứng chờ khoảng 05 phút thì H chạy xe mô tô (Không rõ biển số) tới đưa cho Đ bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Đ cầm bộ dụng cụ sử dụng ma túy cất giấu vào túi xách Đ đeo trước ngực và nhờ H chở về khu nhà ở an sinh xã hội Becamex H, thuộc khu 1, phường H, thành phố T, tỉnh B. Khi Đ đang đứng giữa dãy nhà trọ của Đ tại số A4 và A5, đoạn đường N12, khu nhà ở an sinh xã hội Becamex H, thuộc khu 1, phường H, thành phố T, tỉnh B để chờ vợ của Đ về mở cửa (do Đ không có chìa khóa). Khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày 11/5/2019, trong lúc đang đứng chờ thì Đ bị lực lượng Công an phường Hòa Phú thấy khả nghi nên kiểm tra phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang Đ về hành vi cất giấu ma túy trong túi áo khoác bên phải Đ đang mặc và bộ dụng cụ sử dụng ma túy trong túi xách đeo Đ đang đeo. Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính, đựng 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu đen có số thuê bao 0985.597.XXX. Cùng ngày 11/5/2019, Công an phường Hòa Phú chuyển hồ sơ vụ việc cùng đối tượng Nguyễn Chí Đ và các vật chứng trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền.

Căn cứ Kết luận giám định số 375 ngày 14/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (Một) gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong bì thư có chữ ký người bị bắt Nguyễn Chí Đ, cán bộ niêm phong Văn Hải Đ và hình dấu đỏ Công an phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng: 0,2996 gam sau giám định: 01 (Một) gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong có khối lượng: 0,2590 gam.

Đối với người nam tên L và người nam tên H đã có hành vi bán trái phép chất ma túy và cho Nguyễn Chí Đ mượn bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Quá trình điều tra xác định: Ngày 11/5/2019, Đua sử dụng điện thoại di động có số thuê bao 0988.597.XXX gọi đến số thuê bao 0942.498.XXX và số thuê bao 0971.659.XXX của người nam tên L và tên H để hỏi mua ma túy. Ngày 23/9/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một ra Lệnh thu giữ điện tín số 04 yêu cầu Tổng công ty Viễn thông Vinaphone và Lệnh thu giữ điện tín số 05 yêu cầu Tổng công ty Viễn thông Viettel cung cấp thông tin chủ thuê bao; danh sách các cuộc gọi đi, cuộc gọi đến và nội dung các tin nhắn đối với 03 số thuê bao trên nhưng đến nay chưa có kết quả. Ngoài ra, do Đ không biết rõ họ tên, nhân thân, lai lịch của 02 người nam bán trái phép chất ma túy cho Đ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Đối với 01 (một) gói nylon miệng kéo dính, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định là: 0,2590 gam và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy thu giữ của Nguyễn Chí Đ. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu đen có số thuê bao 0985.597.XXX đã thu giữ của Nguyễn Chí Đ. Quá trình điều tra xác định, Nguyễn Chí Đ dùng điện thoại trên để thực hiện hành vi phạm tội. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước.

Cáo trạng số 258/CT-VKS-HS ngày 28/10/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Chí Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Chí Đ đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Chí Đ mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù;

Về biện pháp tư pháp: Đối với 01 (một) gói nylon chứa ma túy trọng lượng sau giám định 0,2590gam theo kết luận giám định số 375/MT-PC09 ngày 14/5/2019 và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là tang vật của vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia màu đen có số thuê bao 0985.597.XXX (không kiểm tra chi tiết tình trạng hoạt động) là công cụ phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Bị cáo Nguyễn Chí Đ không có ý kiến tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Chí Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, người làm chứng, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 11/5/2019, Nguyễn Chí Đ đã bị lực lượng Công an phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một kiểm tra phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 0,2996 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng tại nhà số A4 và A5 đường N2, khu nhà ở an sinh xã hội Becamex H, thuộc khu 1, phường H, thành phố T, tỉnh B nên hành vi mà bị cáo thực hiện đã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu nên để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Đối chiếu với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ vào nhân thân bị cáo, xét mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là cao nên Hội đồng xét xử xử bị cáo mức hình phạt thấp hơn mức mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 (một) gói nylon chứa ma túy trọng lượng sau giám định 0,2590gam theo kết luận giám định số 375/MT-PC09 ngày 14/5/2019 và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia màu đen có số thuê bao 0985.597.XXX (không kiểm tra chi tiết tình trạng hoạt động) do bị cáo Đ sử dụng vào việc thực hiện tội phạm.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 136, 260 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1./ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí Đ 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/5/2019.

2./ Về vật chứng của vụ án, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói nylon chứa ma túy trọng lượng sau giám định 0,2590gam theo kết luận giám định số 375/MT-PC09 ngày 14/5/2019 và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia màu đen có số thuê bao 0985.597.XXX (không kiểm tra chi tiết tình trạng hoạt động).

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 025.20 ngày 25/10/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

3./ Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Chí Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:222/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về