Bản án 222/2018/HNGĐ-ST ngày 27/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 222/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 27 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B – tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 2587/2017/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2017 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 220/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 439/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2018 giữa:

1.Nguyên đơn: Trần Thị Thiên T, sinh năm 1979.

Địa chỉ: khu phố A, phường V, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2.Bị đơn: Ông Huỳnh Văn S, sinh năm 1977.

Địa chỉ: ấp M, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà T, ông S vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/9/2017 và tại bản tự khai nguyên đơn bà Trần Thị Thiên T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Huỳnh Văn S kết hôn năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố B, hôn nhân là tự nguyện. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, nhưng từ đầu năm 2016 vợ chồng có nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được. Do vậy đời sống chung không hạnh phúc, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và không thể tiếp tục chung sống với nhau nữa. Do vậy bà đã suy nghĩ kỹ để đi đến quyết định ly hôn với ông S.

Về con chung: Có 02 con chung là cháu Huỳnh Ngọc X, sinh ngày 04/8/2004 và cháu Huỳnh Ngọc R, sinh ngày 20/4/2009. Khi ly hôn, bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý; giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho ông S nhưng ông S vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.

Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định. Bị đơn thực hiện không đúng.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của bà T. Giao cháu Huỳnh Ngọc X và cháu Huỳnh Ngọc R cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời ông S không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu. Bà T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị Thiên T có đơn xin xét xử vắng mặt, Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập; Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật, nhưng ông Huỳnh Văn S vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Thiên T và ông Huỳnh Văn S kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đã được Ủy ban nhân dân phường V, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 173 ngày 25/12/2002 nên áp dụng Điều 9, 11, 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà T, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo như bà T trình bày thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, nhưng từ đầu năm 2016 vợ chồng có nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được. Do vậy đời sống chung không hạnh phúc, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và không thể tiếp tục chung sống với nhau nữa. Do vậy bà đã suy nghĩ kỹ để đi đến quyết định ly hôn với ông S. Tòa án cũng đã tiến hành triệu tập ông S đến Tòa để hòa giải đoàn tụ nhưng ông S không đến, cho thấy ông Son không muốn níu kéo cuộc hôn nhân này. Mặt khác, theo biên bản xác minh với bà Nguyễn Thị H là mẹ ruột ông S cho biết vợ chồng ông S và bà T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Hiện hai vợ chồng đã sống ly thân từ khoảng cuối năm 2016 cho đến nay, lý do mâu thuẫn thì bà không nắm rõ. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông S đã thật sự trầm trọng, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ nên việc bà T xin ly hôn với ông S là có cơ sở chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận đơn xin ly hôn của bà T, cho ly hôn giữa bà Trần Thị Thiên T và ông Huỳnh Văn S.

[3] Về con chung: Bà T và ông S có 02 con chung là cháu Huỳnh Ngọc X, sinh ngày 04/8/2004 và cháu Huỳnh Ngọc R, sinh ngày 20/4/2009. Khi ly hôn, bà T xin được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là trách nhiệm của cha mẹ. Khi ly hôn bà T xin được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông S cấp dưỡng. Ông S đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa làm việc, cháu Huỳnh Ngọc X và cháu Huỳnh Ngọc R có nguyện vọng được ở với mẹ, do đó để đảm bảo cuộc sống ổn định cho các con chung nên giao cháu X và cháu R cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành để tạo điều kiện ổn định phát triển về mọi mặt cho các cháu. Tạm thời ông S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: Theo bà T trình bày không có. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về tài sản chung, nên không đặt ra xem xét mà tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

[5] Về nợ chung: Theo bà T trình bày không có. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về nợ chung, nên không đặt ra xem xét mà tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

[6] Về án phí: Bà T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 203, Điều 220, Điều 238, Điều 266, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị Thiên T. Cho ly hôn giữa bà Trần Thị Thiên T và ông Huỳnh Văn S.

Về con chung: Giao cháu Huỳnh Ngọc X, sinh ngày 04/8/2004 và cháu Huỳnh Ngọc R, sinh ngày 20/4/2009 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà Trần Thị Thiên T phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 003492 ngày 22/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Bà T đã nộp đủ án phí.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2018/HNGĐ-ST ngày 27/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:222/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về