Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 31 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 498/2020/TLST-HNGĐ ngày 11/11/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/3/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1983 Địa chỉ: Số A, ấp B, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

* Bị đơn: Anh Trương Tấn A, sinh năm 1981 Địa chỉ: Số B, ấp H, xã TR, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 03/11/2020, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H trình bày: Vào năm 2001, chị với anh Trương Tấn A tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 7/6/2004. Quá trình chung sống, anh chị có hai con chung là em Trương Nguyễn Kim N, sinh ngày 6/4/2002, đã trưởng thành và cháu Trương Nguyễn Ngọc Z, sinh ngày 18/10/2010, hiện nay cháu Z đang sống chung với chị. Năm 2020 anh chị đã không còn chung sống với nhau, nguyên nhân do anh A thường xuyên đánh đập chị. Nay chị nhận thấy vợ chồng sống chung không hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn với anh A, xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Z đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung, anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Trương Tấn A trình bày: Anh thống nhất với lời khai của chị H về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Tuy nhiên, nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là anh có cờ bạc gây nợ nần, chị H có trả nợ dùm, ngoài ra không có nguyên nhân nào khác. Anh không đồng ý ly hôn với chị H. Nếu ly hôn thì con muốn theo ai thì người đó nuôi, không đặt ra về cấp dưỡng.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của pháp luật, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự và quan hệ pháp luật đang tranh chấp là chính xác, tại phiên tòa Hội đồng xét xử đúng thành phần, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H và anh A được ly hôn, giao cháu Z cho chị H nuôi, anh A không cấp dưỡng, về tài sản chung và nợ chung không đặt ra xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Nguyễn Thị Thu H có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt chị H.

[2] Năm 2001, chị Nguyễn Thị Thu H và anh Trương Tấn A tự nguyện tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau, sau đó anh chị đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 7/6/2004. Vì vậy, hôn nhân của anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chị H cho rằng anh chị đã không còn chung sống với nhau, nguyên nhân do anh A thường xuyên đánh đập chị, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn với anh A. Anh A thì cho rằng anh không có đánh chị H mà do anh cờ bạc gây nợ nần nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, anh còn thương vợ nên không đồng ý ly hôn. Thấy rằng: Hôn nhân giữa chị H và anh A đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đã không còn chung sống với nhau một thời gian đủ lâu nhưng anh chị không có biện pháp hàn gắn tình cảm, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, chị H cương quyết xin ly hôn với anh A, anh A không đồng ý nhưng anh không có biện pháp nào để hàn gắn tình nghĩa vợ chồng, để chung sống lại với nhau. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H, cho chị và anh A được ly hôn để mỗi người tạo lập cuộc sống mới.

[3] Về con chung: Chị H và anh A có hai người con chung là em Trương Nguyễn Kim N, sinh ngày 6/4/2002, đã trưởng thành, sức khỏe bình thường và cháu Trương Nguyễn Ngọc Z, sinh ngày 18/10/2010, hiện nay cháu Z đang sống chung với chị H. Chị H yêu cầu được nuôi cháu Z đến tuổi trưởng thành, anh A xác định cháu Z muốn sống với ai thì người đó nuôi, cháu Z có nguyện vọng chung sống với chị H. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Z cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh A không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu.

[5] Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh A, không ai được quyền ngăn cản.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh A không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Như đã nhận định nêu trên, đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H.

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Trương Tấn A.

2/. Về con chung: Giao cháu Trương Nguyễn Ngọc Z, sinh ngày 18/10/2010 cho chị Nguyễn Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

3/. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Trương Tấn A không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

4/. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Trương Tấn A, không ai được quyền ngăn cản.

5/. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Trương Tấn A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

6/. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai số 0006751 ngày 03/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Chị H đã nộp đủ tiền án phí. Anh A không phải chịu án phí sơ thẩm.

7/. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

8/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về