Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 23/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

 Ngày 23/6/2021, tại Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 89/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21/5/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18a/2021/QĐST-DS ngày 07/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đinh Thị Kim L, sinh năm 1995. (Vắng mặt) Địa chỉ: Xóm 26, thôn H, xã C, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

2. Bị đơn: Ông Tô Minh P, sinh năm 1997. (Vắng mặt) Địa chỉ: Xóm 28, thôn T, xã C, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và biên bản lấy lời khai của đương sự, nguyên đơn Đinh Thị Kim L trình bày: Bà Đinh Thị Kim L và ông Tô Minh P tự nguyện tìm hiểu nhau, chung sống như vợ chồng từ năm 2017 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận theo giấy chứng nhận kết hôn số 94/2017 ngày 20/6/2017. Thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc, từ đầu năm 2019 ông P thường nhậu nhẹt, không lo làm ăn, bà L nhiều lần khuyên nhưng ông P không chịu sửa đổi, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Bà L và ông P không còn chung sống như vợ chồng từ tháng 8/2019 đến nay và không còn liên lạc gì với nhau nữa. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà L khởi kiện yêu cầu Tòa giải quyết:

+ Về hôn nhân: Bà Đinh Thị Kim L yêu cầu ly hôn với ông Tô Minh P.

+ Về con chung: Quá trình chung sống ông P và bà L có 01 con chung là Tô Đinh T1, sinh ngày 21/12/2016, ông P đang trực tiếp nuôi dưỡng. Bà L yêu cầu giao con chung cho ông P nuôi dưỡng, bà L không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập, cũng như tống đạt hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng cho bị đơn, nhưng bị đơn không chấp hành và cũng không có văn bản trình bày ý kiến nộp Tòa án. Tại phiên tòa, bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do.

Ngày 15/4/2021, Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong đã tiến hành xác minh tại thôn T, xã C, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, kết quả như sau: Ông Tô Minh P, sinh năm 1997, hiện nay đang sống tại nhà cha mẹ ruột tại xóm 28, thôn T, xã C, huyện Tuy Phong. Không rõ mâu thuẫn giữa ông P và bà L như thế nào nhưng hiện nay ông P một mình nuôi con chung, bà L thì không rõ ở đâu. Về con chung: Ông P và bà L có 01 con chung là Tô Đinh T1, sinh ngày 21/12/2016, ông P đang trực tiếp nuôi dưỡng.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã nhiều lần tổ chức phiên hòa giải nhưng bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt. Do đó vụ án không hòa giải được.

Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Đinh Thị Kim L được ly hôn với ông Tô Minh P, giao con chung Tô Đinh T1, sinh ngày 21/12/2016 cho ông Tô Minh P tiếp tục nuôi dưỡng, bà Đinh Thị Kim L không phải cấp dưỡng nuôi con do ông P không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa cũng như căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Đinh Thị Kim L khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Tô Minh P và nuôi con chung do đó Tòa án thấy rằng đây là “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại xã C, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận nên theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong.

Tại phiên tòa, ông Tô Minh P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt, bà Đinh Thị Kim L vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Theo lời trình bày của nguyên đơn cùng các tài liệu có trong hồ sơ thì bà Đinh Thị Kim L và ông Tô Minh P tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận nên hôn nhân hợp pháp. Bà L trình bày từ đầu năm 2019 ông P thường nhậu nhẹt, không lo làm ăn, bà L nhiều lần khuyên nhưng ông P không chịu sửa đổi, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Bà L và ông P không còn chung sống như vợ chồng từ tháng 8/2019 đến nay và không còn liên lạc gì với nhau nữa. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông P đến giải quyết nhưng ông không chấp hành, điều này chứng tỏ ông P không có thiện chí và không có mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà L. Quá trình xác minh tại địa phương nơi ông P và bà L sinh sống cũng xác định bà L đã không còn chung sống với ông P. Nhận thấy rằng tình trạng hôn nhân của ông P và bà L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích hôn nhân không đạt được, để đảm bảo quyền lợi của các đương sự và ổn định cuộc sống cho các bên, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, Điều 54, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L.

[3] Về con chung: Ông Tô Minh P và bà Đinh Thị Kim L có 01 con chung là Tô Đinh T1, sinh ngày 21/12/2016, hiện ông P đang trực tiếp nuôi dưỡng, bà Đinh Thị Kim L không có yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung do đó để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung thì Hội đồng xét xử sẽ giao con chung Tô Đinh T1 cho ông Tô Minh P tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chung do không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi con chung có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không trực tiếp nuôi con chung cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật tại một vụ án khác.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà Đinh Thị Kim L phải nộp 300.000 đồng án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Đinh Thị Kim L được ly hôn ông Tô Minh P.

2. Về con chung: Giao con chung Tô Đinh T1, sinh ngày 21/12/2016 cho ông Tô Minh P trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Tô Minh P có quyền khởi kiện yêu cầu bà Đinh Thị Kim L cấp dưỡng nuôi con chung nếu có yêu cầu.

Bà Đinh Thị Kim L không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Đinh Thị Kim L là nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002768 ngày 25/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phong. Bà Đinh Thị Kim L đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 23/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về