Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 21/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 452/2020/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXX-ST ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Mỹ X, sinh năm 1997 Địa chỉ: Số 250, khóm 9, phường 1, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

* Bị đơn: Anh Võ Văn S, sinh năm 1993 Địa chỉ: Số 79/380A, khóm 3, phường 2, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. (Chị X và anh S vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Nguyễn Mỹ X trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Võ Văn S tự nguyện chung sống vợ chồng vào năm 2018, không có tổ chức đám cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn vào ngày 12/6/2019 tại Ủy ban nhân dân phường 2, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Thời gian đầu anh chị sống tại nhà của anh S ở địa chỉ số 79/380A, khóm 3, phường 2, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Sau đó khoảng 01 năm thì anh chị chuyển đến tỉnh Bình Dương sinh sống để đi làm. Quá trình chung sống thì giữa anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh S là người nghiện cờ bạc và số đề, đi làm có bao nhiêu tiền cũng chi xài hết vào chuyện cờ bạc, không có trách nhiệm, không lo lắng cho gia đình, chị X đã nhiều lần khuyên can nhưng anh S không sửa đổi. Mâu thuẫn kéo dài và ngày càng gay gắt nên dẫn đến việc anh S đánh đập chị nhiều lần. Đỉnh điểm là chị X đã 02 lần treo cổ tự tử nhưng được người thân phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Trước tết nguyên đán 2021 khoảng 02 tháng thì anh chị về lại Bạc Liêu và bắt đầu sống ly thân. Chị X về sống cùng gia đình tại số 250, Hoàng Diệu, khóm 9, phường 1, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, còn anh S thì về nhà cha mẹ ruột ở khóm 3, phường 2 sinh sống. Trong thời gian này anh S vẫn thường xuyên gọi điện chửi mắng và đến nhà chị X gây chuyện. Cụ thể là trong tháng 11 năm 2020, anh S đã 02 lần đến nhà chị X gây chuyện, phá phách và châm lửa đốt nhà trong khi trong nhà có người già và trẻ nhỏ, sự việc được phát hiện và chữa cháy kịp thời, có trình báo đến Công an phường 1 và anh S có bị công an phường mời làm việc, sau đó không đến nữa mà vẫn gọi điện chửi mắng thường xuyên cho đến nay. Nay xét thấy cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị X yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

- Về con chung: Quá trình chung sống, anh chị có 01 con chung tên Võ An K, sinh ngày 27/4/2019. Trước đây thì con sống với anh chị, sau khi từ Bình Dương về Bạc Liêu thì anh S và gia đình nhiều lần yêu cầu chị X giao con cho anh S nuôi dưỡng nên chị đã tự nguyện giao con cho anh S đem về nuôi từ khoảng 02 tuần trước tết nguyên đán 2021 cho đến nay. Hiện nay con đang sống với anh S cùng gia đình bên nội ở khóm 3, phường 2, thành phố B. Sau khi ly hôn thì chị X đồng ý giao con cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Quá trình chung sống, giữa anh chị không có tạo lập được tài sản chung, không có nợ ai, cũng không có ai nợ anh chị nên chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn anh Võ Văn S: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, đã nhiều lần triệu tập anh S đến Tòa án để làm việc liên quan đến yêu cầu khởi kiện của chị X nhưng anh Sáng đều vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp bất kỳ văn bản trình bày ý kiến nào cho Tòa án. Anh S đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên tòa nhưng vắng mặt nên không có lời khai.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm: Về thủ tục tố tụng:

Tòa án thụ lý giải quyết vụ án này là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình thụ lý giải quyết vụ án Tòa án đã tuân thủ trình tự tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tại phiên tòa hôm nay thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Mỹ X với anh Võ Văn S, cho chị X ly hôn với anh Sáng. Về con chung giao cháu Võ An K sinh ngày 27/4/2019 cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, chị X không phải cấp dưỡng cho cháu K do anh S không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét. Về án phí: Chị Nguyễn Mỹ X phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án; quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát; sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về tố tụng:

[1] Chị Nguyễn Mỹ X khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Võ Văn S. Anh S có nơi cư trú tại thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ việc này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.

[2] Xét xử vắng mặt đương sự: Chị X có đơn xin xét xử vắng mặt, anh S đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên Tòa án xét xử vắng mặt chị X và anh S theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Mỹ X và anh Võ Văn S tự nguyện chung sống vợ chồng vào năm 2018, không có tổ chức đám cưới, có thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường 2, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 12/6/2019 là có xảy ra trên thực tế nên quan hệ hôn nhân giữa chị Xuân và anh S là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Chị X xác định: Giữa anh chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Anh S là người nghiện cờ bạc, sống không có trách nhiệm với gia đình, anh S có đi làm nhưng không lo lắng cho vợ con. Mâu thuẫn không giải quyết được khiến xảy ra việc đánh đập, tự tử. Sau khi sống ly thân thì anh S thường xuyên gọi điện, đến nhà chị X gây chuyện chửi bới, châm lửa đốt nhà chị X. Chị X cho rằng mâu thuẫn giữa anh chị không giải quyết được, đời sống hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn với anh S.

Hội đồng xét xử xét thấy chị X và anh S không giải quyết được mâu thuẫn vợ chồng, không hàn gắn được rạn nứt trong quan hệ hôn nhân nên chị X yêu cầu ly hôn với anh S. Về phía anh S, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định, đã triệu tập anh Sáng nhiều lần để hòa giải và làm việc liên quan đến yêu cầu khởi kiện của chị X nhưng anh Sáng đều vắng mặt không có lý do. Đồng thời anh S cũng không cung cấp bất kỳ văn bản trình bày ý kiến nào cho Tòa án. Điều này cho thấy anh S không có thiện chí hòa giải, không có nguyện vọng hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Bên cạnh đó, xét thấy chị X và anh S sống ly thân hơn sáu tháng mà vẫn không giải quyết được mâu thuẫn, không thể sống chung lại với nhau được, quá trình làm việc tại Tòa án, chị X vẫn cương quyết xin ly hôn vì xác định không còn tình cảm với anh S.

Đồng thời, tại văn bản số 02/CAP ngày 09/6/2021 của Công an phường 1, thành phố Bạc Liêu xác định:

“Vào ngày 24/11/2020, bà Lý Kim Hoa, sinh năm 1944, ngụ: Số 250, đường Hoàng Diệu, khóm 9, phường 1, thành phố Bạc Liêu có đến công an phường 1, thành phố Bạc Liêu trình báo sự việc: Ông Võ Văn S, sinh năm 1993, ngụ khóm 3, phường 2, thành phố Bạc Liêu có hành vi dùng vải tẩm xăng đốt và ném vào nhà bà tại số 250, đường Hoàng Diệu, khóm 9, phường 1, thành phố Bạc Liêu. Do không có thiệt hại lớn nên bà Lý Kim Hoa chỉ yêu cầu làm rõ sự việc và giáo dục, nhắc nhở ông Võ Văn S. Qua sự việc trên, Công an phường 1 đã tiến hành mời anh Võ Văn S làm việc, giáo dục và cho cam kết, không tái phạm” Như vậy, việc anh S đến nhà chị X gây chuyện và dùng vải tẩm xăng đốt và ném vào nhà chị X là có xảy ra trên thực tế, được Công an phường 1 xác nhận. Do đó, có cơ sở xác định chị X và anh S chung sống với nhau có xảy ra mâu thuẫn như lời trình bày của chị X. Lẽ ra thời gian sống ly thân là để cả hai người cùng tìm giải pháp để khắc phục mâu thuẫn nhằm hàn gắn lại rạn nứt trong mối quan hệ vợ chồng nhưng anh Sáng lại có những hành vi làm cho mâu thuẫn trở nên gay gắt hơn. Xét thấy mâu thuẫn giữa anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện chị X. Cho chị X được ly hôn với anh S.

[2] Về con chung: Chị X và anh S có một con chung tên Võ An K, sinh ngày 27/4/2019. Hiện nay cháu K đang sống chung với anh S. Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, chị X xác định con đang sống với anh S được chăm sóc tốt, đảm bảo cho sự phát triển bình thường nên chị X tự nguyện giao con cho anh S nuôi dưỡng sau khi ly hôn, không cấp dưỡng cho con. Nếu có phát sinh tranh chấp về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì chị X sẽ khởi kiện ở một vụ án khác. Đồng thời, qua xác minh chính quyền địa phương cũng xác định hiện nay anh Sáng đang nuôi con và điều kiện sống tương đối tốt. Do đó có cơ sở xác định cháu K đang sống chung với anh S, mặc dù cháu K chưa đủ 36 tháng tuổi nhưng xét thấy cháu đang sống với cha được nuôi dưỡng, chăm sóc ổn định, đảm bảo cho sự phát triển bình thường và chị X cũng tự nguyện giao con cho anh S nuôi dưỡng sau khi ly hôn là phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị X không phải cấp dưỡng cho cháu K do anh S không yêu cầu.

Chị X có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được phép ngăn cản. [3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị X xác định chị và anh S chung sống không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết. Đồng thời anh S cũng không đặt ra yêu cầu xem xét giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí: Chị X phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Nguyễn Mỹ X với anh Võ Văn S. Cho chị Nguyễn Mỹ X được ly hôn với anh Võ Văn S.

2. Về con chung: Giao con chung tên Võ An K, sinh ngày 27/4/2019 cho anh Võ Văn S trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục sau khi ly hôn. Hiện nay cháu K đang sống cùng anh S nên anh Sđược tiếp tục nuôi dưỡng cháu K.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị Nguyễn Mỹ X không phải cấp dưỡng cho cháu Võ An K do anh Võ Văn S không yêu cầu.

Chị Nguyễn Mỹ X có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu Võ An K, không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Mỹ X phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị X đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0007402 ngày 15/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu được chuyển thu án phí 300.000 đồng.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 21/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về