Bản án 22/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 22/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Sộng Thị L, sinh năm 1968, tại: xã C, huyện M, tỉnh Y; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Bản P, xã N, huyện ML, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 0/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sộng A D (Đã chết) và bà Giàng Thị P sinh năm 1952; có chồng là Mùa A V, sinh năm 1967; có 06 con, sinh lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim L – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

- Người phiên dịch: Bà Vàng Thị D; địa chỉ: Tiểu khu 3, thị trấn I, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 40 phút ngày 27/8/2020, tại nhà của Sộng Thị L, sinh năm 1968, ở bản P, xã N, huyện ML, tỉnh Sơn La, Công an huyện ML, tỉnh Sơn La đã bắt quả tang Sộng Thị L đang có hành vi bán trái phép 01 (Một) gói nilon màu trắng, bên trong chứa cục bột màu trắng, nghi là Heroine cho Quàng Văn Q, sinh năm 1999, trú tại bản H, xã CL, huyện ML, tỉnh Sơn La. Công an xã N đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Sộng Thị L và niêm phong số tang vật đã thu giữ gồm:

- 01 (một) gói được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, bên trong có chứa cục bột màu trắng, nghi là Heroine.

- 01 (một) tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 100.000VNĐ (Một trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra Sộng Thị L khai nhận: Vào trưa ngày 25/8/2020, Sộng Thị L đang ở nhà một mình tại bản P, xã N, huyện ML, tỉnh Sơn La thì có một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, tuổi, địa chỉ giới thiệu nhà ở bản Đ xã CL, huyện ML, tỉnh Sơn La đi xe máy đến nhà L và hỏi L có mua ma túy không, Sộng Thị L đồng ý và mua của người đàn ông này 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa cục bột màu trắng với giá 50.000VNĐ (Năm mươi nghìn đồng). Sau khi mua xong, L cất giấu ở xắn tay áo của mình và không cho ai biết. Đến trưa ngày 27/8/2020, Sộng Thị L đem gói Heroine ra, lấy một ít trong gói đó và hít thử xem có phải là Heroine thật không, một lúc sau thì có Quàng Văn Q, sinh năm 1999, trú tại bản H, xã CL, huyện ML, tỉnh Sơn La đến hỏi mua ma túy, Sộng Thị L nói có và lấy từ xắn tay áo ra gói nilon màu trắng đưa cho Q và nhận tiền từ Quyết 100.000VNĐ (Một trăm nghìn đồng). Khi Quyết vừa nhận gói Heroine từ L cất vào túi quần bên trái và chuẩn bị ra về thì bị lực lượng công an xã N phát hiện bắt quả tang. Cùng ngày, tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của Sộng Thị L nhưng không thu giữ gì thêm.

Ngày 28/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện ML và phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, tách bì và cân tịnh xác định khối lượng và lấy mẫu giám định vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Sộng Thị L. Kết quả: Cục bột màu trắng bên trong gói nilon màu trắng có khối lượng là 0,09 (Không phẩy không chín) gam, lấy hết 0,09 (Không phẩy không chín) gam làm mẫu giám định ký hiệu LQ; 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 (một) mảnh nilon màu trắng niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 28/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML đã ra quyết định trưng cầu giám định số: 109/ĐCSHS-KTMT đối với mẫu vật ký hiệu LQ và quyết định trưng cầu giám định số: 110/QĐTCGĐ đối với tờ tiền mệnh giá 100.000VNĐ (Một trăm nghìn đồng).

Tại kết luận giám định số: 1396 ngày 31/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Cục màu trắng đựng trong gói nilon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,09 gam, loại Heroine. Hoàn lại mẫu vật sau giám định có khối lượng 0,04 (Không phẩy không bốn) gam.

Tại kết luận giám định số: 1413 ngày 03/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Tờ tiền mệnh giá 100.000VNĐ (Một trăm nghìn đồng) gửi giám định là tiền thật. Hoàn lại toàn bộ số tiền gửi giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Sộng Thị L không có ý kiến hay khiếu nại gì về các kết luận giám định nêu trên.

Đối với Quàng Văn Q, cơ quan chức năng đã chuyển áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính.

Thực hiện điều tra đối với người bán trái phép chất ma túy cho Sộng Thị L, ngoài lời khai của bị cáo, cơ quan chức năng không có cơ sở chứng minh, điều tra, xử lý theo vụ án.

Tại bản cáo trạng số 96/CT-VKSML ngày 13/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Sộng Thị L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, do hám lời, bị cáo đã mua ma túy cất giữ, mục đích để bán thì bị bắt như cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ML sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Sộng Thị L và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Sộng Thị L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, xử phạt bị áo từ 24 (Hai mươi tư) đến 30 (Ba mươi) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 0,04 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 phong bì niêm phong ban đầu và 01 mảnh nilon màu trắng; tịch thu và nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 100.00VNĐ (Một trăm nghìn đồng).

Người bào chữa cho bị cáo Sộng Thị L tranh luận: Đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, không có tài sản đáng giá; bị cáo không biết chữ, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật rất hạn chế; hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo không phải là mua bán chuyên nghiệp; bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp nhất, không phạt bổ sung và miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Hồi 15 giờ 40 phút ngày 27/8/2020, Sộng Thị L, sinh năm 1968, ở bản P, xã N, huyện ML, tỉnh Sơn La đã có hành vi bán trái phép 01 (Một) gói nilon màu trắng, bên trong chứa cục bột màu trắng, nghi là Heroine cho Quàng Văn Q, sinh năm 1999, trú tại bản H, xã CL, huyện ML, tỉnh Sơn La thì bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại kết luận giám định số: 1396 ngày 31/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Cục màu trắng đựng trong gói nilon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,09 (Không phẩy không chín) gam, loại Heroine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,04 (Không phẩy không bốn) gam” và kết luận giám định số: 1413 ngày 03/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Tờ tiền mệnh giá 100.000VNĐ (Một trăm nghìn đồng) gửi giám định là tiền thật.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo mặc dù đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của việc mua bán trái phép chất ma túy nhưng do hám lời, bị cáo đã coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, vẫn cố tình phạm tội. Hành vi cất giấu, cất giữ trái phép 0,09 gam Heroine của bị cáo đã gây nguy hiểm cho xã hội, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo, mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo L phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người có ích cho gia đình và xã hội. Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), không có khả năng tự cải tạo. Do đó, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh tài sản và lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: gia đình của bị cáo thuộc hộ nghèo của xã N, không có tài sản giá trị; bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 28/8/2020 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[8] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy hết 0,09 (Không phẩy không chín) gam ma túy làm mẫu giám định, kết quả: Xác định 0,09 gam ma túy thu giữ khi bắt quả tang Sộng Thị L là Heroine, còn lại 0,04 (Không phẩy không bốn) gam Heroine hiện đang lưu kho vật chứng, ký hiệu là LQ, là vật cấm tàng trữ, lưu hành, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 01 mảnh nilon màu trắng là vật dụng bị cáo sử dụng cất giữ trái phép chất ma túy, là vật chứng không có giá trị, do đó, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với số tiền 100.000VNĐ (Một trăm nghìn đồng) bị cáo L đã bán trái phép chất ma túy cho Quàng Văn Q là số tiền do bị cáo phạm tội mà có, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cần tịch thu và nộp ngân sách Nhà nước.

[9] Đối với người đàn ông dân tộc Mông bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ, ngoài lời khai của bị cáo, cơ quan điều tra không thu thập thêm được chứng cứ nào khác nên không có cơ sở chứng minh xử lý theo vụ án.

[10] Đối với hành vi tàng trữ trái phép 0,09 gam Heroine của Quàng Văn Q, mục đích để sử dụng. Xét thấy, Q là người nghiện ma túy (theo Biên bản thử chất ma túy), thực hiện hành vi mua ma túy của Sộng Thị L và bị bắt quả tang khi đang cất giữ 0,09 gam Heroine, Q chưa có tiền án, tiền sự, lượng ma túy tàng trữ chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML, tỉnh Sơn La xử phạt hành chính đối với Quàng Văn Q là phù hợp.

[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí cho bị cáo; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Sộng Thị L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Sộng Thị L 26 (Hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 28/8/2020).

3. Về vật chứng:

- Tịch thu và tiêu hủy: 0,04 (Không phảy không bốn) gam Heroine còn lại sau giám định, ký hiệu là LQ; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 01 mảnh nilon màu trắng.

- Tịch thu và nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) của bị cáo Sộng Thị L do bán heroine mà có.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ML và Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sộng Thị L.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/11/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về