Bản án 22/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 22/2020/HS-ST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 23/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Xuân T, sinh ngày 19/3/1989, tại xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 8, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Viết L và bà Mai Thị L; có vợ là Ngô Thị N và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án: tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/02/2020, đến ngày 18/3/2020 thay thế bằng biên pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

- Bị hại: Ông Ngô Minh K, sinh năm 1942; nơi cư trú: Xóm 8, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”;

- Người làm chứng.

1. Ông Ngô Văn T, sinh năm 1954; nơi cư trú: Xóm 9, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “có mặt”;

2. Bà Vũ Thị C, sinh năm 1962; nơi cư trú: Xóm 9, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “có mặt”;

3. Anh Phạm Văn T, sinh năm 1989; nơi cư trú: Xóm 14, xã K, huyện X, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”;

4. Chị Ngô Thị T, sinh năm 1991; nơi cư trú: Xóm 14, xã K, huyện X, tỉnh Nam Định; “có mặt”;

5. Chị Ngô Thị N, sinh năm 1991; nơi cư trú: Xóm 8, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “có mặt”;

6. Ông Ngô Văn K, sinh năm 1969; nơi cư trú: Xóm 8, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”;

7. Anh Ngô Mạnh H, sinh năm 1978; nơi cư trú: Xóm 8, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”;

8. Chị Ngô Thị T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Xóm 9, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “có mặt”;

9. Chị Ngô Thị B, sinh năm 1985; nơi cư trú: Xóm 1, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “có mặt”;

10. Anh Mai Cao Sơn, sinh năm 1980; nơi cư trú: Xóm 1, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”;

11. Anh Đinh Văn G, sinh năm 1977; nơi cư trú: Xóm 9, xã T, huyện X, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 30 phút ngày 29/9/2019, tại xóm 8 xã T, huyện Xuân Trường, gia đình ông Ngô Minh K đang xây tường bao nhà anh Ngô Mạnh H (con trai ông K) phần giáp ranh với ngõ đi chung của xóm 8 và xóm 9 xã T thì xảy ra mâu thuẫn giữa ông K với ông Ngô Văn T nhà ở gần đó về việc cháu ông T bị xe máy xô vào. Ông K cầm xô vữa đang xây hất vào người ông T nhưng không trúng, ông T liền đuổi theo ông K chạy ra đường. Nghe tiếng xô xát cãi nhau gia đình ông K có anh Ngô Văn K và Ngô Mạnh H là con trai của ông K chạy ra, gia đình ông T có bà Vũ Thị C, chị Ngô Thị N, chị Ngô Thị T, chị Ngô Thị T, anh Phạm Văn T và Bùi Xuân T là vợ, con gái và con rể của ông T. Hai bên vào can ngăn xô đẩy, đấm đá về phía nhau. K nhặt 01 viên gạch đá hoa giơ lên định ném về phía người nhà ông T thì T cũng nhặt 02 viên gạch chạy và ném 01 viên về phía anh K đang đứng. Anh K giơ viên gạch đá hoa lên đỡ khiến viên gạch đá hoa bị vỡ ra, K bị thương tích nhẹ ở vùng đầu. Ông K cầm 01 đoạn cành cây dài khoảng 0,5m chạy ra ném về phía người nhà ông T nhưng không trúng ai. Bùi Xuân T đứng ngoài đường liên xóm nhìn qua tường rào của nhà ông K thấy ông K cùng các con ném gạch, đá về phía người nhà mình. T dùng tay phải nhặt 01 viên gạch chạy đến vị trí cách ông K khoảng 0,5m rồi ném viên gạch qua tường rào nhằm vào ông K. Viên gạch trúng vào vùng mặt bên trái của ông K làm ông K ngã gục xuống, các con ông K đưa ông K vào trong nhà, còn phía người nhà ông T cũng về nhà. Toàn bộ sự việc diễn ra trong thời gian khoảng 15 phút, các hộ dân xung quanh không biết nên không ảnh hưởng đáng kể đến trật tự.

Ny sau khi sự việc xảy ra, ông K được đưa đến Trung tâm y tế huyện Xuân Trường cấp cứu và được chuyển lên Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương Hà Nội, tại đây ông K được bệnh viện kết luận thương tích như sau: Sưng nề ổ mắt hai bên, gãy xương gò má cung tiếp trái, gãy xương chính mũi, vỡ xoang hàm hai bên. Ông K được chuyển đến Bệnh viện lão K Trung ương điều trị từ ngày 01/10/2019 đến ngày 07/10/2019 chuyển về Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương tiếp tục điều trị, đến ngày 17/10/2019 được xuất viện. Hiện nay sức khỏe của ông K đã ổn định.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích sô 254/19/TgT ngày 06/12/2019 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Nam Định xác định ông Ngô Minh K bị thương tích như sau: 02 sẹo vết thương phần mềm kích thước trung bình và nhỏ 03%.; gãy cung tiếp gò má: 08%; gãy xương chính mũi 09%; vỡ xoang hàm hai bên: 14%. Tỷ lệ tổn thương cơ T do thương tích gây nên hiện tại là 30% (áp dụng phương pháp cộng lùi). Cơ chế hình thành vết thương do vật cứng có cạnh tác động gây thương tích.

Tại cơ quan điều tra, Bùi Xuân T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 27/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố Bùi Xuân T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Bùi Xuân T đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”; áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Xuân T từ 30 đến 33 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Bị cáo Bùi Xuân T khai nhận đã thực hiện hành vi “Cố ý gây thương tích” như nội dung vụ án đã nêu, bị cáo công nhận Viện kiểm sát đã truy tố đúng hành vi phạm tội của mình. Trong lời nói sau cùng, bị cáo thực sự ăn năn, hối lỗi mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội: Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Xuân T tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp lời khai của bị hại; kết quả giám định cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 29/9/2019, Bùi Xuân T đã có hành vi dùng 01 viên gạch là hung khí nguy hiểm ném trúng vào vùng mặt trái ông Ngô Minh K. Hậu quả: Ông K bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ T là 30%. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Có ý gây thường tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố là có căn cứ.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của người khác mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ giữa người thân của bị cáo với hàng xóm, đáng lẽ bị cáo phải can ngăn hòa giải nhưng bị cáo lại không làm thế mà lại có hành vi dùng viên gạch là hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho người khác. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật thì mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo bị truy tố về tình tiết định khung hình phạt nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

[5] Về hình phạt: Từ những phân tích trên, xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách là đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

[6] Đối với thương tích của Ngô Văn K do Phạm Văn T gây lên. K rút yêu cầu giải quyết và không yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Đối với Ngô Văn T, Ngô Thị T, Phạm Văn T, Ngô Văn K, Ngô Mạnh H, Ngô Minh K có hành vi đánh nhau nhưng chưa đến mức xử lý hình sự nên Công an huyện Xuân Trường đã xử phạt hành chính đối với những người này là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị cáo cùng gia đình đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho ông K tổng số tiền là 50.000.000đ. Ông K đã nhận, không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[9] Về vật chứng của vụ án: Một số viên gạch, đá vỡ, cùng bộ quần áo đã thu giữ là những vật chứng có liên quan đến vụ án không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khon 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Bùi Xuân T phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Xử phạt bị cáo Bùi Xuân T 30 (ba mươi) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án (bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 07/02/2020 đến ngày 18/3/2020). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện X, tỉnh Nam Định giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy toàn bộ số viên gạch, đá vỡ, cùng bộ quần áo mà cơ quan công an đã thu giữ.

(Chi tiết vật chứng, tài sản thu giữ theo: Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 29/THA ngày 27/4/2020 giữa Công an huyện Xuân Trường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Bùi Xuân T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:22/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về