Bản án 22/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 22/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công Ki vụ án hình sự thụ lý số: 21/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn K, sinh năm 1988; nơi cư trú: ấp LC, xã Đ, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M và bà Dương Thị P; vợ Lê Kiều O (đã ly hôn) và có 01 người con sinh năm 2009; tiền án: không; tiền sự: 01 tiền sự tại Quyết định số 36/QĐ-UBND ngày 11/3/2020 của Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã với thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong vào ngày 11/6/2020; nhân thân: chưa có án tích và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính đã được xóa; bị tạm giữ từ ngày 23/3/2020 đến ngày 29/3/2020 được tại ngoại, bị bắt tạm giam từ ngày 25/8/2020 cho đến nay “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 22/3/2020, Tổ tuần tra Công an huyện U Minh phối hợp với Công an thị trấn U Minh tuần tra kiểm soát trên đoạn đường gần kênh Chệch Buối thuộc khóm 4, thị trấn U Minh, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau phát hiện Nguyễn Lý H điều khiển xe môtô hiệu Sirius biển số 69UR-A chở Lê Văn K ngồi phía sau, cả hai đều không đội mũ bảo hiểm, có biểu hiện nghi vấn nên Tổ tuần tra ra hiệu lệnh dừng xe kiểm tra. Trong khi tiến hành kiểm tra phát hiện Lê Văn K cầm 01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng dạng rắn trên tay vứt xuống đất gần vị trí K đứng, kiểm tra trên người của K phát hiện trong ví da có 01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng dạng rắn nghi là ma túy nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tiến hành thu giữ niêm phong vật chứng đưa đi giám định.

Trong quá trình điều tra Lê Văn K Ki nhận: Khoảng 09 giờ ngày 22/3/2020, K điều khiển xe đến vòng xoay phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau mua ma túy của một người không quen biết với giá 1.800.000 đồng nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi mua ma túy, K điều khiển xe đến nhà Lê Văn Đ thuộc khóm 4, thị trấn U Minh, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, tại đây K cùng với Nguyễn Lý H và Hùng N (không rõ họ tên) sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy, Hùng N mượn xe của K chạy đi, còn K chia số ma túy còn lại ra làm 02 gói nhỏ, 01 gói K để trong ví da, còn 01 gói K bỏ vào gói thuốc lá. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày không thấy Hùng N về trả xe nên K nhờ Lý H chở đi tìm. Khi đi, K bỏ cái ví da vào túi quần và cầm gói thuốc lá trên tay, trên đường đi K hút hết thuốc nên lấy gói ma túy ra cầm trên tay và vứt bỏ bao thuốc lá. Khi Lý H điều khiển xe chở K đến gần kênh Chệch Buối thì bị lực lượng Công an kiển tra phát hiện thu giữ 02 gói ma túy và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 38/GĐMT-PC09 ngày 25/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng trong 02 bọc nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,8162 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 phong bì hoàn mẫu sau giám định được niêm phong, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 38/GĐMT-PC09 ngày 25/3/2020, bên trong có chứa 1,7563 gam Methamphetamine; 01 ví da màu nâu dài 24 cm, rộng 10 cm, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu hồng, đã qua sử dụng.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 01/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau truy tố Lê Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; phạt bị cáo Lê Văn K từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Về vật chứng vụ án đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì hoàn mẫu sau giám định được niêm phong, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 38/GĐMT-PC09 ngày 25/3/2020, bên trong có chứa 1,7563 gam Methamphetamine; 01 ví da màu nâu dài 24 cm, rộng 10 cm, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu hồng, đã qua sử dụng.

Bị cáo Lê Văn K thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, bị cáo thống nhất luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo Lê Văn K: Bị cáo thấy hành vi tàng trữ trái phép của bị cáo là sai trái, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện U Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo Lê Văn K: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận khoảng 09 giờ ngày 22/3/2020, bị cáo đến vòng xoay phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau mua ma túy của một người không quen biết với giá 1.800.000 đồng nhằm mục đích để sử dụng. Sau đó, bị cáo điều khiển xe đến nhà Lê Văn Đ thuộc khóm 4, thị trấn U Minh, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, tại đây bị cáo cùng với Nguyễn Lý Hg và Hùng N đem ma túy ra sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy, bị cáo chia số ma túy còn lại ra làm 02 gói nhỏ đựng bằng bọc nylon, 01 gói K để trong ví da, còn 01 gói K bỏ vào gói thuốc lá. Khoảng 16 giờ cùng ngày, bị cáo nhờ Lý H điều khiển xe chở đi tìm Hùng N để lấy xe. Khi đến gần kênh Chệch Buối thì bị lực lượng Công an kiển tra phát hiện thu giữ 02 gói ma túy, trong đó 01 gói ma túy bị cáo vứt xuống đất và 01 gói ma túy bị cáo để trong ví da. Tang vật được niêm phong đưa đi giám định, kết quả giám định mẫu tinh thể rắn màu trắng trong 02 bọc nylon gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng 1,8162 gam.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời Ki của những người chứng kiến sự việc, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án. Với những chứng cứ và hành vi đã thực hiện, có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng truy tố và trình bày luận tội của đại diện Viện kiểm sát đối với hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[4] Trong quá trình phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ ma túy là chất gây nghiện có tác hại xấu đến sử khỏe của con người khi sử dụng, việc tàng trữ trái phép chất ma túy đều bị pháp luật nghiêm cấm và bị xử lý theo quy định. Nhưng do bản thân là con nghiện nên bị cáo đã bất chấp, cố tình thực hiện tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến quy định của nhà nước về quản lý chất ma túy, đồng thời hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo không chỉ gây tác hại xấu đến sức khỏe người sử dụng mà còn là nguyên nhân dẫn đến phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, tại thời điểm phạm tội bị cáo còn đang trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, trong thời gian chuẩn xét xử bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương và bị bắt theo quyết định truy nã. Với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt có xem xét tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là có thái độ thành khẩn Ki báo.

[5] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì hoàn mẫu sau giám định được niêm phong, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 38/GĐMT-PC09 ngày 25/3/2020, bên trong có chứa 1,7563 gam Methamphetamine; 01 ví da màu nâu dài 24 cm, rộng 10 cm, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu hồng, đã qua sử dụng.

[6] Về án phí, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Phạt bị cáo Lê Văn K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/8/2020, thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/3/2020 đến ngày 29/3/2020 được tính vào thời gian chấp hành hình phạt.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự vaø điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì hoàn mẫu sau giám định được niêm phong, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 38/GĐMT-PC09 ngày 25/3/2020, bên trong có chứa 1,7563 gam Methamphetamine; 01 ví da màu nâu dài 24 cm, rộng 10 cm, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu hồng, đã qua sử dụng.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Lê Văn K phải chịu 200.000 đồng.

Bị cáo Lê Văn K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về