Bản án 22/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 22/2020/HS-ST NGÀY 04/06/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 04-6-2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2020/TLST-HS ngày 23-4-2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS, ngày 21-5-2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh T, sinh ngày 06-4-1992 tại Hòa Bình; trú tại: Thôn B, xã P, huyện N, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh M và bà Đinh TT; có vợ tên Đinh Thị L (đã ly hôn) và 03 người con (con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29-11-2019 đến nay. (Có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Anh Hoàng VT, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn I, xã P, huyện N, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28-11-2019, Đinh T đi bộ một mình vào khu vực đường tuần tra biên giới Việt – Lào để tìm cây hoa phong lan về chơi. Khi đi đến gần khu vực cột mốc 787 biên giới Việt – Lào, thuộc Thôn I, xã P, huyện N, tỉnh Kon Tum T gặp một người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Trong khi nói chuyện với nhau, người này hỏi T “có chở hàng không?”. T hỏi lại “chở hàng gì, đi từ đâu đến đâu, giá bao nhiêu tiền?” thì người đàn ông trên nói “chở hàng pháo, đi từ khu vực đường biên gần mốc 787 đến đồi tranh gần dốc bộ đội (thuộc thôn Iệc, xã Pờ Y) với giá 10.000 đồng một hộp, khi đến nơi sẽ có người ra đón và trả tiền”. T đồng ý nên người này dẫn đến một bụi cây gần đó, nơi đang giấu 05 bao tải màu xanh, 01 xe mô tô độ chế và nói với T trong 05 bao tải là pháo hoa, mỗi bao có 25 hộp. Nói xong, cả hai khiêng 05 bao tải bỏ lên xe mô tô, cột cố định lại rồi giấu xe vào vị trí cũ, sau đó người đàn ông kia đi bộ về hướng nước Lào. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T đến lấy và điều khiển xe mô tô chở theo 05 bao tải pháo đi theo đường mòn hướng về khu vực đồi tranh, dốc bộ đội (thuộc Thôn I, xã P, huyện N) để giao hàng như đã thỏa thuận trước đó. Nhưng khi đi được khoảng 20m thì T bị bộ đội Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Bờ Y phát hiện bắt quả tang. Ngày 29-11-2019 Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Bờ Y chuyển hồ sơ và tang vật đến Công an huyện Ngọc Hồi giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận giám định số: 19/KLGĐ ngày 05-12-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai xác định: 125 hộp giấy bên trong mỗi hộp chứa 49 vật hình trụ có dây nối liên kết với nhau đựng trong 05 bao xác rắn gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ, tổng khối lượng là 238,2kg.

Tại Bản cáo trạng số: 22/CT-VKS-HS ngày 22-4-2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi truy tố Đinh T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo Đinh T luôn thành khẩn khai báo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đinh T, đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”;

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đinh T mức án từ 07 năm đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tuyên tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số pháo và 01 dao tông sắt trong vụ án; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước chiếc xe mô tô do bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

3. Về án phí: Đề nghị căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi và Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi đã thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thẩm quyền các thủ tục tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa, người làm chứng – anh Hoàng VT dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét việc vắng mặt của người làm chứng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Đinh T khai nhận: Vào chiều ngày 28-11-2019, khi T đi bộ đến khu vực cột mốc 787 biên giới Việt – Lào, thuộc Thôn I, xã P, huyện N thì gặp một người đàn ông lạ mặt. Tại đây, sau khi trao đổi, T đã nhận lời chở pháo thuê cho người này từ đường biên gần mốc 787 đến khu vực đồi tranh thuộc Thôn I, xã P, huyện N với giá 10.000 đồng một hộp. Sau khi thỏa thuận, người này dẫn T đến chỗ đang cất giấu 01 xe mô tô độ chế và 05 bao tải màu xanh bên trong mỗi bao chứa 25 hộp pháo hoa. Cả hai khiêng 05 bao tải bỏ lên xe mô tô, cột cố định lại rồi giấu vào vị trí cũ. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô chở theo 05 bao pháo đi theo đường mòn hướng về khu vực đồi tranh, nhưng khi mới đi được khoảng 20m thì bị bộ đội Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Bờ Y phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, Đinh T đã có hành vi vận chuyển trái phép pháo – là mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành. Kết luận giám định của cơ quan có thẩm quyền xác định: 125 hộp giấy (bên trong mỗi hộp chứa 49 vật hình trụ có dây nối liên kết với nhau) đựng trong 05 bao xác rắn thu giữ của Đinh T là pháo với đầy đủ đặc tính của pháo nổ, có tổng khối lượng là 238,2kg. Mặt khác, tại thời điểm vận chuyển Đinh T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, hành vi của T đã phạm vào tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi truy tố bị cáo theo điều luật vừa nêu, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, thấy rằng: Hành vi của Đinh T là rất nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có trình độ học vấn, nhận thức được rằng, pháo là chất nổ có nguy cơ cao gây nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng con người, nên những hành vi như: Sản xuất, mua bán, vận chuyển pháo nổ bị pháp luật nghiêm cấm. Bên cạnh đó, với vai trò là dân quân xã, lẽ ra bị cáo phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh phòng, chống những hành vi vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù vậy, với bản tính lười lao động, hám lợi, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội thể hiện ý thức liều lĩnh, coi thường pháp luật của Đinh T; gây ảnh hưởng xấu đến chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước, làm mất an ninh, trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng - giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với người phạm tội: Trong vụ án này, bị cáo Đinh T không phải chịu các quy định về tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mặt khác, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo luôn thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về việc làm của bản thân – đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng. Hiện nay bị cáo đang là lao động chính, gia đình có hoàn cảnh khó khăn: Bị cáo đang nuôi dưỡng, chăm sóc 03 con nhỏ; cha mẹ bị cáo đều là người bị bệnh tật – có xác nhận của chính quyền địa phương; nên bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, trước khi phạm tội, Đinh T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Do vậy, cũng cần giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, sớm cải tạo thành người có ích.

[5] Với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, các tình tiết giảm nhẹ cùng nhân thân của bị cáo Đinh T như đã phân tích, đánh giá ở trên, thấy rằng: Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục người phạm tội, đồng thời cũng nhằm để răn đe, phòng ngừa trong tình hình loại tội phạm liên quan đến pháo nổ trên địa bàn huyện Ngọc Hồi đang diễn biến phức tạp và có chiều hướng ngày càng tăng như hiện nay.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Đinh T hiện nay không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo cũng chưa được hưởng lợi từ hành vi phạm tội của mình, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số pháo trong vụ án theo lời khai của Đinh T, là do một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ thuê bị cáo vận chuyển. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh lai lịch của người đàn ông này nhưng đến nay chưa có kết quả nên chưa có cơ sở để xử lý.

[8] Về vật chứng của vụ án: Ngoài 238,2kg pháo, Cơ quan điều tra còn thu giữ: 01 xe mô tô độ chế không gắn biển kiểm soát, không rõ số khung, số máy; 01 dao tông sắt.

Xét thấy: Số pháo là vật cấm lưu hành. Con dao tông là của bị cáo nhưng bị cáo không nhận lại và không có giá trị sử dụng. Do vậy, tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số pháo và con dao này.

Riêng chiếc xe mô tô: Hiện không xác định được người đứng tên đăng ký xe và do bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo Đinh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đinh T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Đinh T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 29-11-2019).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy: 05 bao xác rắn ký hiệu “X1, X2, X3, X4, X5” bên trong có tổng cộng 113 hộp giấy kín, bên ngoài dán giấy màu in chữ “HAPPY BOOM – KK0049” còn lại sau khi trích mẫu để giám định; 01 dao tông sắt, dài 44cm.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 xe máy độ chế, không có biển kiểm soát, không có dàn vỏ nhựa, tại vị trí có đóng số khung có hàn một thanh kim loại làm mất đi một phần dãy số, số khung còn lại đọc được “VLKPCH022LK*062…” là dãy chữ số và nguyên thủy.

Các vật chứng nêu trên như được ghi tại: Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29-4-2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hồi; Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08-5-2020 giữa Công an huyện Ngọc Hồi và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hồi.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội);

- Buộc bị cáo Đinh T phải nộp là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về kháng cáo: Áp dụng các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 04-6-2020), bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:22/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hồi - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về