Bản án 22/2020/HS-PT ngày 09/03/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 22/2020/HS-PT NGÀY 09/03/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 09 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 02/2020/TLPT-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn C. Do có kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2019/HSST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C, sinh năm 1994 tại tỉnh Bình Phước; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Thị Y G; bị cáo có vợ (nhưng không đăng ký kết hôn) Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/5/2019 cho đến nay. (Có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Văn C1, sinh năm 1969 (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Lut sư Nguyễn Thành K – Văn phòng luật sư B, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

Địa chỉ: Số 210 quốc lộ 14, khu Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Người tham gia tố tụng khác: Ông Bùi Viết N – Điều tra viên thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Bình Phước. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ ngày 24 tháng 02 năm 2019, Nguyễn Văn C1 cùng với Vũ Anh K, Trần Quốc H (tên thường gọi là D) rủ nhau đến quán “Trọng Huấn” thuộc thôn Đ, xã Đ, huyện B do ông Lê Văn H làm chủ để uống rượu, bia. Trong khi ngồi uống rượu, C1 nhìn thấy ông Nguyễn Văn C2 đang ra xe để về (ông C2 cũng uống rượu tại quán), thì C1 gọi ông C2 lại để mời uống bia. Ông C2 đồng ý đi vào bàn của C1, C1 đưa cho ông C2 01 ly thủy tinh, màu trắng, cao khoảng 13cm, đường kính vòng tròn khoảng 07cm, có quai cầm đựng đầy bia. Ông C2 uống hết ½ ly xong, ông C2 đưa ½ ly bia còn lại cho C1, C1 nhớ lại chuyện ông C2 “nói xấu” C1 với bà Nguyễn Thị N (là mẹ của bạn gái C1), nên C1 dùng tay trái cầm ly bia đánh 01 cái trúng vào vùng mắt phải của ông C2, làm ông C2 ngất xỉu ngã (té) xuống nền gạch ở quán. Thấy vậy, ông H đưa ông C2 đi cấp cứu tại Trạm y tế xã Đ, sau đó chuyển đến bệnh viện Đa khoa tỉnh B để điều trị vết thương cho đến ngày 04 tháng 3 năm 2019 thì ông C2 xuất viện về nhà.

Tại Bản giám định pháp y về thương tích số: 110/2019/TgT ngày 08/4/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh B kết luận ông Nguyễn Văn C2 dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương gãy xương gò má phải đã điều trị nội khoa, hiện đang can xương; sẹo gò má phải (kích thước 2 x 0,1cm) bờ gọn, mềm, lành tốt; sẹo giữa cung mày mắt phải (kích thước 1,5 x 0,1cm), bờ gọn, mềm, lành tốt. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 10%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2019/HSST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước đã tuyên xử:

Về tội danh Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C1 phạm “Tội cố ý gây thương tích” Về điều luật áp dụng và hình phạt Áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 134, điểm b, i Khoản 1, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C1 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2019. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng 48 của Bộ luật hình sự. Các Điều 584, 585, 586 và 590 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại Nguyễn Văn C2 số tiền 21.132.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/12/2019 bị hại Nguyễn Văn C2 kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm để điều tra lại, làm rõ tính đồng phạm. Trường hợp nếu không hủy án thì đề nghị áp dụng khung hình phạt nặng hơn, tăng hình phạt đối với bị cáo C1 và yêu cầu buộc bị cáo bồi thường toàn bộ số tiền như bị hại đã đề nghị.

Tại phiên tòa bị hại vẫn giữ nguyên kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn C2 về việc hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại và đề nghị áp dụng khung hình phạt nặng hơn, tăng hình phạt đối với bị cáo. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại về phần trách nhiệm dân sự. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2019/HSST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 24/02/2019, Nguyễn Văn C1 cùng với Vũ Anh K, Trần Quốc H (tên thường gọi là D) uống rượu, bia tại quán “Trọng Huấn” thuộc thôn Đ, xã Đ, huyện B. Khi C1 nhìn thấy ông C2 đi về thì C1 gọi ông C2 lại để mời uống bia. Ông C2 đồng ý và uống hết ½ ly xong, ông C2 đưa ½ ly bia còn lại cho C1. C1 nhớ lại mẫu thuẫn trước đó với ông C2 nên C1 cầm ly bia đánh 01 cái trúng vào vùng mắt phải của ông C2, làm ông C2 ngất xỉu và té ngã sau đó ông C2 được ông H đưa đi cấp cứu. Hậu quả làm ông C2 bị tổn thương cơ thể là 10%. Như vậy hành vi cầm ly bia đánh vào mặt ông C2 làm ông C2 bị thương của bị cáo C1 đã cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn C2, Hội đồng xét xử nhận định:

- Đối với kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm để điều tra đồng phạm đối với bà Trương Thị Hồng H và anh Vũ Anh K, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên tòa bị hại C2 cung cấp 02 file ghi âm và cho rằng bà H là người chủ mưu. Tuy nhiên tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành mở, nghe công khai 02 file ghi âm này thì nội dung của 02 file ghi âm không liên quan đến nội dung vụ án mà Tòa án đang xét xử. Hơn nữa việc này đã được tiến hành đối chất công khai ngày 04/6/2019 giữa bị hại C2 và bà H (bút lục 95 đến 98). Đối với anh K thì tại lời khai của bị cáo C1 ngày 26/3/2019 (Bút lục: 54); Lời khai của ông Trần Quốc H ngày 26/3/2019 (Bút lục: 70), ngày 26/6/2019 (Bút lục: 71); Lời khai của ông Lê Văn H ngày 26/3/2019 (Bút lục: 73, 74) đều trình bày lúc ông C2 bị C1 đánh té ngã thì K cũng xông vào đá vào người ông C2. Tuy nhiên sau đó bị cáo C1 thay đổi lời khai là chỉ có một mình bị cáo đánh ông C2, ngoài ra không còn ai khác và khẳng định lời khai Kiệt tham gia đánh ông C2 là không chính xác. Lời khai của anh Vũ Anh K (bút lục: 56, 59, 62, 63) cũng khẳng định anh K chỉ vào can ngăn chứ không tham gia đánh ông C2 (bút lục: 65, 66, 67). Lời khai của ông Lê Văn H tại Biên bản ngày 26/6/2019 cũng khẳng định lại là không xác định được Kiệt có đánh ông C2 hay không. Mặt khác dữ liệu Camera nhà ông H vào ngày xảy ra sự việc cũng đã không còn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B cũng đã cho trích xuất và khôi phục dữ liệu của Camera nhưng không khôi phục được. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng không đủ căn cứ để xác định sự tham gia của các đối tượng khác. Vì vậy, kháng cáo của bị hại C2 về phần này không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Đối với kháng cáo đề nghị áp dụng khung hình phạt nặng hơn và tăng hình phạt đồng thời buộc bị cáo phải bồi thường toàn bộ số tiền như bị hại đã yêu cầu, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Nguyễn Văn C1 đã có hành vi dùng tay phải cầm ly thủy tinh, là hung khí nguy hiểm đánh 01 cái trúng vào vùng mắt phải của bị hại gây thương tích với tỉ lệ thương tật là 10%. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Sau khi xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiệm trọng, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục một phần hậu quả được quy định tại điểm b, i, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án 01 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Do vậy, kháng cáo của bị hại về phần này không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đi với yêu cầu bị cáo phải bồi thường toàn bộ số tiền 129.600.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị hại không cung cấp thêm được chứng cứ nào mới so với cấp sơ thẩm đã xem xét. Tuy nhiên, phía bị cáo đã tự nguyện bồi thường thêm cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Xét thấy đây là sự tự nguyện bồi thường của bị cáo, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên cần ghi nhận. Do vậy chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại về phần trách nhiệm dân sự. Buộc bị cáo C1 bồi thường cho bị hại C2 tổng số tiền là 31.132.000 đồng.

[3] Quan điểm của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Do kháng cáo của bị hại C2 về phần trách nhiệm dân sự được chấp nhận nên cần sửa lại án phí dân sự sơ thẩm như sau: 31.132.000 đồng x 5% = 1.556.600 đồng. Bị cáo Nguyễn Văn C1 phải chịu 1.556.600 đồng (Một triệu năm trăm năm mươi sáu nghìn sáu trăm đồng).

- Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn C1 không phải chịu.

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn C2 về việc đề nghị hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại và đề nghị áp dụng khung hình phạt nặng hơn, tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn C1.

[2] Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2019/HSST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước về khung hình phạt và mức hình phạt. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3] Chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn C2 về trách nhiệm dân sự.

[4] Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2019/HSST ngày 20/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước về phần trách nhiệm dân sự.

[5] Về tội danh Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C1 phạm tội “Cố ý gây thương tích”

[6] Về điều luật áp dụng và hình phạt Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i khoản 1, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C1 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2019.

[7] Về trách nhiệm dân sự: p dụng 48 của Bộ luật hình sự. Các Điều 584, 585, 586 và 590 Bộ luật dân sự năm 2015. Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo Nguyễn Văn C1 cho bị hại Nguyễn Văn C2 thêm số tiền 10.000.000 đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn C1 phải bồi thường cho người bị hại Nguyễn Văn C2 số tiền 31.132.000 đồng (Ba mươi mốt triệu một trăm ba mươi hai nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[8] Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn C1 phải chịu 1.556.600 đồng (Một triệu năm trăm năm mươi sáu nghìn sáu trăm đồng).

- Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn C1 không phải chịu.

[9] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-PT ngày 09/03/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:22/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về