Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 26/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 22/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 68/2020/TLST-HNGĐ ngày 19/02/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985; Có mặt.

Địa chỉ: Khối 4, thị trấn CG, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

- Bị đơn: Anh Kiều Văn H, sinh năm 1979. Có mặt.

Địa chỉ: Khối 3, thị trấn CG, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tình trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Kiều Văn H kết hôn với nhau ngày 09/8/2004, sau khi sinh con đầu lòng rồi mới đăng ký kết hôn. Hôn nhân tự nguyện không bị ép buộc lừa dối và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Cầu Giát, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn vợ chồng đã bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ con, luôn coi thường vợ. Chị đã cố gắng chịu đựng và khuyên nhủ, bỏ qua nhiều lần để vợ chồng sống với nhau, nhưng anh H vẫn không thay đổi. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Nay chị T xác định không còn tình cảm gì với anh H nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Kiều Văn Th, sinh ngày 11/8/2002; Kiều Văn M, sinh ngày 10/01/2004 và Kiều Văn Th, sinh ngày 20/10/ 2013. Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu M và cháu Th; giao cháu Th cho anh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa bị đơn anh Kiều Văn H trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị T kết hôn với nhau ngày 09 tháng 8 năm 2004, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn CG, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Vợ chồng chung sống bình thường không có vấn đề gì. Tuy nhiên thời gian gần đây do có vài chén rượu nên anh có nặng lời với chị T và đe dọa đập xe máy, nên chị T đã về ngoại ở từ trước tết năm 2020. Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh không nhất trí ly hôn vì anh vẫn còn tình cảm với chị T, mong muốn được đoàn tụ để xây dựng hạnh phúc gia đình.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Kiều Văn Th, sinh ngày 11/8/2002; Kiều Văn M, sinh ngày 10/01/2004 và Kiều Văn Th, sinh ngày 20/10/2013. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì nguyện vọng của anh là được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Th, giao cháu M và cháu Th cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, cháu Kiều Văn Th có nguyện vọng ở với bố và cháu Kiều Văn M có nguyện vọng được ở với mẹ.

Đại diện VKS phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký đã thực hiện đúng các trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành theo giấy báo của Tòa án.

Về đường lối giải quyết vụ án:

Áp dụng vào các Điều 51, khoản 1 điều 56, 81,82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 147 BLTTDS năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị xử:

- Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Kiều Văn H.

- Về con chung: Giao cháu Kiều Văn M, sinh ngày 10/01/2004 và Kiều Văn Th, sinh ngày 20/10/2013 cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Kiều Văn Th, sinh ngày 11/8/2002 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng;

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị T và anh H vì không ai yêu cầu. trở.

Chị T, anh H có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản - Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

- Về án phí: Nguyên đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị T yêu cầu ly hôn với anh Kiều Văn H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh H đăng ký hộ khẩu tại khối 3 thị trấn CG, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; căn cứ điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Về nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị T và anh H là hợp pháp vì tuân thủ các thủ tục, điều kiện kết hôn do luật định. Quá trình chung sống chị T cho rằng quan hệ vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng do anh H thường xuyên rượu chè, say xỉn đánh đập vợ con, coi thường chị. Nhưng anh H cho rằng vợ chồng vẫn sống với nhau bình thường, không có mâu thuẫn gì, chỉ là do gần đây anh có vài chén rượu nên hay chửi bới, rồi đe dọa. Tuy hai bên trình bày khác nhau nhưng kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân thị trấn cho biết anh H hay đánh đập chị T, gây ra bạo lực gia đình, và thực tế cho thấy chị T đã làm đơn ly hôn với anh H từ năm 2018 nhưng sau đó chị đã rút đơn. Vì vậy thể hiện mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Chị T kiên quyết ly hôn, anh H không đồng ý ly hôn, nhưng anh cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó nên xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Kiều Văn H là phù hợp với quy định pháp luật.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Kiều Văn H có 03 con chung là Kiều Văn Th, sinh ngày 11/8/2002; Kiều Văn M, sinh ngày 10/01/2004 và Kiều Văn Th, sinh ngày 20/10/2013. Hiện nay cháu Th đã lớn và gần đủ tuổi trưởng thành, có nguyện vọng được ở với bố, anh H cũng có nguyện vọng được nuôi cháu Th nên cần chấp nhận ý kiến trên để đảm bảo quyền lợi cho cháu và anh H. Đối với cháu M có nguyện vọng xin được ở với mẹ và cháu Th hiện đang còn nhỏ nên cần sự chăm sóc giáo dục của người mẹ, vì vậy giao cháu M và cháu Th cho chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, là phù hợp với quy định pháp luật và với nguyện vọng của các bên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị T và anh Kiều Văn H không ai yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét, giải quyết.

[3]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Kiều Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét. [4]. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị T phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm 300.000đ theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào điều 51, khoản 1 Điều 56; các Điều 58,81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 điều 28; khoản 1 điều 39; điều 147; khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Kiều Văn H.

- Về con chung: Giao cháu Kiều Văn M, sinh ngày 10/01/2004 và Kiều Văn Th, sinh ngày 20/10/2013 cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Giao cháu Kiều Văn Th, sinh ngày 11/8/2002 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị T và anh H vì không ai yêu cầu. 

Chị T, anh H có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị T, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

2/ Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm; được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0003630 ngày 18 tháng 02 năm 2020.

3/ Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 26/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về