Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN – TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 22/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXX-ST ngày 21 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Nguyễn Tiến C, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ dân phố L, phường Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Bị đơn: Chị Lý Mai P, sinh năm 1986; địa chỉ: Tổ dân phố L, phường Y, thị xã D, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Tiến C trình bầy: anh và chị P đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 04/6/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện D, tỉnh Hà Nam trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hòa hợp, chị P coi thường anh, trong cuộc sống hàng ngày hai bên không tìm được tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng thường xảy ra cãi vã, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được. Vợ chồng đã nhiều lần sống ly thân, lần gần đây từ tháng 3 năm 2020 đến nay không quan tâm đến nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh xin ly hôn chị P.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị P trình bày: Chị và anh Nguyễn Tiến C đăng ký kết hôn vào ngày 04/6/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện D. Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng hạnh phúc được khoảng 08 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp dẫn đến cư xử giữa vợ chồng không thông cảm, chia sẻ, giúp đỡ nhau, anh C không quan tâm chia sẻ công việc trong gia đình với vợ, con, sống rất cố chấp. Vợ chồng xảy ra cãi vã, xúc phạm danh dự nhân phẩm của nhau, thậm chí có lần xảy ra xô xát. Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng tồn tại trong thời gian kéo dài mặc dù bản thân chị đã điều chỉnh lối sống, sinh hoạt để tìm sự hòa hợp và đã được người thân khuyên giải nhưng anh C vẫn cố chấp chỉ nghĩ đến bản thân mà không nghĩ cho con cái. Vợ chồng ly thân từ ngày 20/6/2020 đến nay không quan tâm gì đến nhau. Nay anh C xin ly hôn thì chị thấy các con còn nhỏ, chị muốn giữ gia đình cho các con đỡ khổ, chị không đồng ý ly hôn.

* Về con chung: Anh C, chị P xác nhận vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Hải N, sinh ngày 19/11/2012, cháu Nguyễn Minh Q, sinh ngày 20/6/2014. Khi ly hôn anh C xin được nuôi cả hai cháu và không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con chung, trường hợp chị P muốn nuôi hai con thì anh cũng đồng ý và anh sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật. Hiện anh làm tự do nên không xuất trình được thu nhập bình quân.

Chị P trình bày: Từ khi vợ chồng sống ly thân con chung do chị trực tiếp nuôi dưỡng, trường hợp phải ly hôn chị xin nuôi hai con và yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Hiện chị đang làm kế toán công ty TNHH M – Khu công nghiệp Đ, thị xã D, Hà Nam mức thu nhập hàng tháng 12.000.000đ.

* Về tài sản chung, công sức, công nợ: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: các đương sự giữ nguyên quan điểm của mình. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án là đúng và đề nghị xử ly hôn giữa anh Nguyễn Tiến C và chị Lý Mai P. Về con chung: giao chị P trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, anh C có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 1.500.000đ/tháng; về tài sản chung, công sức, công nợ: không đặt ra giải quyết và tuyên án phí theo quy định.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm, sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Tiến C và chị Lý Mai P kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện D, tỉnh Hà Nam đăng ký kết hôn vào ngày 04/6/2012 là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo hộ.

Sau thời gian chung sống giữa vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn là thực tế các bên đã thừa nhận, nguyên nhân do tính tình không hòa hợp, coi thường nhau, vợ chồng không thông cảm chia sẻ công việc gia đình, hay xảy ra cãi vã, thậm chí có lần xảy ra xô xát. Mặc dù các bên đã tự điều chỉnh lối sống để tìm sự hòa hợp nhưng tình cảm không được cải thiện. Vợ chồng ly thân nhiều lần, lần gần đây từ tháng 6/2020 đến nay không quan tâm đến nhau. Sau khi thụ lý Tòa án đã tổ chức hòa giải nhưng không có kết quả, anh C vẫn kiên quyết xin ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài vì vậy cần xử ly hôn giữa anh C và chị P là phù hợp thực tế và có căn cứ pháp luật.

[2] Về con chung: vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Hải N, sinh ngày 19/11/2012, cháu Nguyễn Minh Q, sinh ngày 20/6/2014.

Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp nên chấp nhận, giao chị Lý Mai P trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập được. Anh C có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con chung cùng chị P mỗi cháu 1.500.000đ/tháng.

[3] Về tài sản chung, công nợ, công sức: Đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí: anh Nguyễn Tiến C phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 28; 35; 39; 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 Luật hôn nhân gia đình;

- Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội.

1. Xử ly hôn giữa anh Nguyễn Tiến C và chị Lý Mai P.

2. Về con chung: Giao chị Lý Mai P trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Hải N sinh ngày 19/11/2012, cháu Nguyễn Minh Q sinh ngày 20/6/2014 và anh C có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con chung hàng tháng mỗi cháu 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) kể từ tháng 9/2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập được.

Anh C, chị P được quyền thăm hỏi, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Chị P và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh C trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nguyễn Tiến C phải chịu 300.000đ; án phí cấp dưỡng nuôi con chung: anh Nguyễn Tiến C phải chịu: 300.000đ. Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ anh C đã nộp theo biên lai số 0003369 ngày 09/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Duy Tiên được đối trừ khi thi hành án. Anh Nguyễn Tiến C còn phải nộp: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm; anh Nguyễn Tiến C, chị Lý Mai P có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:22/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về