Bản án 22/2020/DS-PT ngày 22/05/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 22/2020/DS-PT NGÀY 22/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 99/2019/TLPT-DS ngày 23 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 24/2019/DS-ST ngày 27/08/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 05/2020/QĐ-PT ngày 04 tháng 02 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2020/QĐ-PT ngày 21-02- 2020, các Thông báo về việc thay đổi lịch xét xử số: 02/2020/TB-TA ngày 16-3- 2020, số 133/2020/TB-TA ngày 01-4-2020 và Thông báo về việc mở phiên tòa số: 155/2020/TB-TA ngày 20-4-2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2020/QĐ-PT ngày 05-5-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Hữu T, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn W, xã N, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông; tạm trú: Số Q, Y N, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk - Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Đinh Xuân T, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn W, xã N, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông - Có mặt.

Người kháng cáo: Ông Đinh Xuân T là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24-12-2018 và quá trình giải quyết vụ án ông Lê Hữu T trình bày: Ông Đinh Xuân T có vay của ông Lê Hữu T tổng số tiền là 460.000.000 đồng. Ngày 24-3-2016 ông Đinh Xuân T viết giấy cam kết hạn trả là tháng 12 năm 2016, các bên không thỏa thuận lãi suất. Tuy nhiên, đến hạn mặc dù ông Lê Hữu T yêu cầu trả nợ nhiều lần nhưng ông Đinh Xuân T chưa trả. Vì vậy, ông Lê Hữu T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đinh Xuân T trả cho ông Lê Hữu T số tiền nợ gốc là 460.000.000 đồng và tiền lãi suất phát sinh tạm tính là 234.600.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án ông Lê Hữu T rút một phần về lãi suất trong hạn, yêu cầu ông Đinh Xuân T trả tiền lãi suất chậm trả theo quy định của pháp luật từ tháng 01 năm 2017 đến ngày xét xử sơ thẩm.

Bị đơn là ông Đinh Xuân T trình bày: Ông Đinh Xuân T thừa nhận có vay của ông Lê Hữu T 460.000.000 đồng và hạn trả như ông Lê Hữu T trình bày. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế khó khăn nên ông Đinh Xuân T mới trả được tổng số tiền khoảng hơn 200.000.000 đồng, trong đó 01 lần trả tiền 100.000.000 đồng, số còn lại chuyển từ tài khoản của ông Đinh Xuân T và tài khoản của con trai vào tài khoản ông Lê Hữu T, cụ thể bao nhiêu không nhớ rõ, đồng thời chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh.

Bản án số: 24/2019/DS-ST ngày 27-8-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91, Điều 93, Điều 96; Điều 143, Điều 144; khoản 1 Điều 147, Điều 184; khoản 2 Điều 227; Điều 244; Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 471, Điều 473, Điều 474 và khoản 2 Điều 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên bố: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu T về phần lãi suất trong hạn. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu T: Buộc ông Đinh Xuân T phải trả cho ông Lê Hữu T số tiền gốc 460.000.000đ (Bốn trăm sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi suất chậm trả là 110.055.000 đồng. Tổng cộng cả gốc và lãi là 570.055.000đ (Năm trăm bảy mươi triệu không trăm năm mươi lăm nghìn đồng). Về án phí: Buộc ông Đinh Xuân T phải chịu 26.802.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả cho ông Lê Hữu T số tiền 15.880.000đ (Mười lăm triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004702 ngày 16-01-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 01-10-2019, bị đơn ông Đinh Xuân T kháng cáo cho rằng đã tìm thấy được một số tài liệu thể hiện việc trả nợ, do vậy đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết lại việc vay nợ giữa ông Đinh Xuân T với ông Lê Hữu T.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Đinh Xuân T cung cấp Giấy biên nhận đề ngày 01-5-2017 thể hiện nội dung: “Tôi Lê Hữu T có nhận số tiền của anh Đinh Xuân T trả nợ cho tôi số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng chẵn)” và có ký tên người nhận là Lê Hữu T.

Tại phiên tòa phúc thẩm ông Lê Hữu T thừa nhận Giấy biên nhận, chữ ký, số tiền 100.000.000 đồng đã nhận của ông Đinh Xuân T ngày 01-5-2017 và trình bày: số tiền đã nhận thực tế là do ông Đinh Xuân T đặt cọc đối với hợp đồng mua bán phân bón giữa hai bên, không liên quan đến số tiền vay 460.000.000 đồng và thời giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Ông Đinh Xuân T trình bày số tiền 100.000.000 đồng ông Lê Hữu T đã nhận ngày 01-5-2017 là trả vào khoản tiền 460.000.000đồng, ngoài ra chưa cung cấp được chứng cứ khác về việc đã trả tiền cho ông Lê Hữu T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm số: 24/2019/DS-ST ngày 27-8-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Đinh Xuân T: Buộc ông Đinh Xuân T phải trả cho ông Lê Hữu T tổng số tiền là 449.310.000 đồng, trong đó tiền nợ gốc 360.000.000 đồng và tiền lãi suất chậm trả là 89.310.000 đồng. Tính lại tiền án phí dân sự sơ thẩm các đương sự phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

n cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Các bên đương sự đều thừa nhận ngày 24-3-2016 ông Đinh Xuân T viết giấy cam kết trả ông Lê Hữu T số tiền đã vay là 460.000.000 đồng vào tháng 12 năm 2016. Tuy nhiên, ông Đinh Xuân T đã không thực hiện đúng cam kết, do đó Bản án dân sự sơ thẩm số: 24/2019/DS-ST ngày 27-8-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu T và buộc ông Đinh Xuân T phải trả cho ông Lê Hữu T 460.000.000 đồng tiền gốc và 110.055.000 đồng lãi suất phát sinh; đồng thời buộc ông Đinh Xuân T phải chịu 26.802.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và hoàn trả cho ông Lê Hữu T số tiền 15.880.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp là có căn cứ và đúng pháp luật. Tuy nhiên, ngày 16-02-2020 (sau khi xét xử sơ thẩm), ông Đinh Xuân T cung cấp “Giấy biên nhận” đề ngày 01-5-2017 ghi nhận nội dung: “Tôi Lê Hữu T có nhận số tiền của anh Đinh Xuân T trả nợ cho tôi số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng chẵn)” và có ký tên người nhận là Lê Hữu T. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm ông Lê Hữu T thừa nhận ngày 01-5-2017 đã nhận 100.000.000 đồng của ông Đinh Xuân T đúng như “Giấy biên nhận” ông Đinh Xuân T đã cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông, nhưng đây là số tiền ông Đinh Xuân T đặt cọc đối với hợp đồng mua bán phân bón.

[2]. Xét yêu cầu của ông Đinh Xuân T xác định số tiền 100.000.000 đồng ông Lê Hữu T đã nhận ngày 01-5-2017 là khoản tiền trả nợ đối với số tiền vay 460.000.000 đồng đã cam kết ngày 24-3-2016 là có căn cứ, bởi lẽ: Kèm theo “Giấy biên nhận” ngày 01-5-2017, nội dung: anh Đinh Xuân T trả nợ cho tôi số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng chẵn)”, ông Đinh Xuân T còn cung cấp các giấy tờ thể hiện quá trình mua bán phân bón giữa ông Đinh Xuân T với ông Lê Hữu T, cụ thể: 01 Giấy biên nhận hàng đề ngày 26-5-2017 (sau ngày trả 100.000.000 đồng 25 ngày), ghi nhận việc ông Đinh Xuân T nhận 20 tấn phân bón loại lân VĐ và phân hữu cơ vi sinh TSN của ông Lê Hữu T trị giá 81.000.000đ (Tám mươi mốt triệu đồng) là giá giá trị toàn bộ hợp đồng, có nội dung “Chưa thanh toán tiền hàng”; 01 hóa đơn đề ngày 04-6-2017 ghi nhận người mua hàng là Đinh Xuân T, tên hàng hóa là phân u rê, phân lân VĐ, trị giá 193.200.000đ (Một trăm chín mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng); 01 Giấy biên nhận đề ngày 05-8-2017 ghi đã nhận đủ 20 tấn phân lân VĐ, cước thêm 6.000.000đ (Sáu triệu đồng), ký tên người nhận là Đinh Xuân T. Ngoài ra, tại biên bản làm việc ngày 12-3-2020 tại Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông, ông Lê Hữu T khẳng định ngoài những tài liệu ông Đinh Xuân T đã cung cấp ghi nhận việc mua bán phân bón giữa ông Đinh Xuân T với ông Lê Hữu T như đã nêu thì không còn tài liệu nào khác. Như vậy, ông Lê Hữu T cho rằng số tiền 100.000.000 đồng đã nhận ngày 01-5-2017 của ông Đinh Xuân T là tiền đặt cọc của hợp đồng mua bán phân bón là có sự mâu thuẫn với chính các nội dung các bên đã ghi nhận việc “trả nợ” số tiền 100.000.000 đồng và “Chưa thanh toán tiền hàng” ngày 26-5-2017. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Đinh Xuân T về việc trừ số tiền 100.000.000 đồng vào số tiền nợ gốc; đồng thời tính lại số tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và theo Quyết định số: 2868/QQĐ-NHNN ngày 29-11-2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định lãi suất cơ bản là 9%/năm (tương ứng 0,75%/ tháng), cụ thể: Tiền lãi của 460.000.000 đồng tính từ ngày 01-01-2017 đến ngày 01-5-2017 (ngày trả 100.000.000 đồng): 460.000.000đ x 04 tháng x 0,75% = 13.800.000 đồng; tiền lãi của 360.000.000 đồng tính ngày 01-5-2017 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 27-8-2019): 360.000.000đ x 0,9%/năm x 02 năm + 360.000.000đ x 0,75%/tháng x 03 tháng + 360.000.000đ x 0,025%/ngày x 27 ngày = 75.330.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền gốc và lãi ông Đinh Xuân T phải trả cho ông Lê Hữu T là 449.130.000 đồng. Tổng số tiền không được chấp nhận theo yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu T là 120.925.000 đồng trong đó tiền gốc là 100.000.000 đồng và lãi suất của 100.000.000 đồng tính từ ngày 01-5-2017 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 27-8-2019) là 20.925.000 đồng.

[3]. Về án phí: Ông Đinh Xuân T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu T được chấp nhận đối với số tiền 449.130.000 đồng; ông Lê Hữu T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền không được chấp nhận 120.925.000 đồng theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH13 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Đinh Xuân T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

1. Chấp nhận kháng cáo của ông Đinh Xuân T, sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 24/2019/DSST ngày 27-8-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.

1.1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu T về phần lãi suất trong hạn.

1.2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu T: Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 2 Điều 305, Điều 471, Điều 473, Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005;

Buộc ông Đinh Xuân T phải trả cho ông Lê Hữu T tổng số tiền là 449.130.000đ (Bốn trăm bốn mươi chín triệu một trăm ba mươi nghìn đồng), trong đó tiền nợ gốc 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi suất chậm trả là 89.130.000đ (Tám mươi chín triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

2.1. Buộc ông Đinh Xuân T phải chịu 21.965.000đ (Hai mươi mốt triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Buộc ông Lê Hữu T phải chịu 6.046.250đ (Sáu triệu không trăm bốn mươi sáu nghìn hai trăm năm mươi đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ trong số tiền 15.880.000 đồng (Mười lăm triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp, hoàn trả cho ông Lê Hữu T số tiền 9.833.750đ (Chín triệu tám trăm ba mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông Lê Hữu T đã nộp theo biên lai số 0004702 ngày 16-01-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

2.2. Ông Đinh Xuân T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn trả cho ông Đinh Xuân T số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0002368 ngày 09-12-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/DS-PT ngày 22/05/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:22/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về