Bản án 22/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MÙ CANG CHẢI, TỈNH YÊN BÁÍ

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mù Cang Chải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Lờ Thị S- sinh năm 1984, tại huyện M, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: bản H, xã L, huyện M, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lờ A Ch- sinh năm 1962 và bà Giàng Thị D- sinh năm 1964; có chồng là Giàng A X- Sinh năm 1982 và 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2010); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2019. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lờ Thị S: ông Vương Văn Điển - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Yên Bái. Có mặt.

- Người phiên dịch tiếng Mông: ông Lý A Dà - trú tại tổ 5, thị trấn Mù Cang Chải, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 30 phút ngày 12/3/2019, tổ công tác Công an huyện Mù Cang Chải làm nhiệm vụ tại khu vực bản Háng Gàng, xã Lao Chải, huyện Mù Cang Chải phát hiện Lờ Thị S có biểu hiện vi phạm pháp luật; tổ công tác vào nhà thấy Lờ Thị S cùng một người đàn ông khác, khi nhìn thấy tổ công tác người đàn ông đã bỏ chạy ra ngoài. tổ công tác yêu cầu S có gì liên quan đến vi phạm pháp luật thì tự giác giao nộp, Lờ Thị S đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu xanh buộc thắt nút một đầu bên trong có 01 gói ni lon màu hồng và 05 gói ni lon màu xanh đều được hàn túm một đầu, bên trong các gói này đều chứa chất bột nén màu trắng (nghi là hê rô in) và 100.000 đồng tiền có chữ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo lời khai của Lờ Thị S đó là hê rô in mua về để bán kiếm lời và số tiền 100.000 đồng là tiền bán hê rô in mà có; tiến hành khám xét chỗ ở, đồ vật đối với Lờ Thị S phát hiện và thu giữ 3.630.000 đồng tiền có chữ Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong hòm tôn cạnh giường ngủ của Lờ Thị S; Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại kết luận giám định số: 68/GĐMT ngày 21/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

- Chất bột nén màu trắng thu giữ trên giường nhà Lờ Thị S có tổng khối lượng là 0,27 gam (không phẩy hai mươi bảy gam)

- 0,08 gam trích từ 0,27 gam chất bột nén màu trắng gửi đi giám định là ma túy, loại hê rô in.

Tại kết luận giám định số: 82/KLGĐ ngày 20/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận: Tổng số tiền 3.730.000 đồng thu giữ của Lờ Thị S gửi giám định đều là tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.

Quá trình điều tra Lờ Thị S khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 11/3/2019 có một người đàn ông lạ đến nhà Lờ Thị S hỏi S có mua hê rô in không, do S đang cần mua hê rô in để bán nên trả lời là có và hỏi mua 01 phân hê rô in với giá 240.000 đồng. Sau đó S chia nhỏ cục hê rô in thành 08 gói nhỏ, gói bằng các mảnh nilon rồi hàn túm một đầu mục đích để bán kiếm lời. Ngày 12/3/2019 S đã đưa cho 02 gói cho một người đàn ông tên là V, để thuê V đi lấy củi; đến 19 giờ 30 phút cùng ngày S đã bán cho một người đàn ông lạ mặt 06 gói với giá 300.000 đồng thì bị tổ công tác Công an huyện Mù Cang Chải bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Bản Cáo trạng số: 21/CT-VKS-MCC ngày 17 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mù Cang Chải truy tố Lờ Thị S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội đã phân tích, đánh giá hành vi của bị cáo trong quá trình thực hiện tội phạm và giữ nguyên quan điểm đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lờ Thị S từ 30 (ba mươi) tháng đến 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy; tịch thu sung quỹ Nhà nước 300.000 đồng; trả lại cho bị cáo số tiền 3.430.000 đồng.

Người bào chữa trình bày lời bào chữa nhất trí với tội danh và điều khoản truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là phụ nữ, dân tộc thiểu số, không biết chữ, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội; nhận thức pháp luật còn hạn chế; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo. Đề nghị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự, cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 24 (Hai mươi bốn) tháng đến 27 (Hai mươi bảy) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến bổ sung lời bào chữa của người bào chữa. Khi được nói lời sau cùng, đề nghị được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra Công an huyện Mù Cang Chải, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mù Cang Chải, Kiểm sát viên; trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa các thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thủ tục tố tụng tại phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với biên bản thu giữ vật chứng; phù hợp với kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 11/3/2019 Lờ Thị S đã mua 0,27 gam ma túy, loại hê hê rô in với giá 240.000 đồng, mục đích để bán kiếm lời. Cụ thể: ngày 12/3/2019 bị cáo đã bán cho một người đàn ông không quen biết số hê rô in trên với giá 300.000 đồng. Hành vi đó của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Với tính chất mức, độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc “Mua bán trái phép chất ma túy” là vi phạm pháp luật, nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, Hành vi của bị cáo không những xâm phạm quy định của Nhà nước về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma tuý, mà còn làm gia tăng tệ nạn nghiện ma tuý; là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh các loại tội phạm khác trên địa bàn, tác động ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời cũng đảm bảo răn đe, phòng ngừa chung. Xét thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng, điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, được Hội đồng xét xử áp dụng khi quyết định hình phạt.

[5] Về nhân thân: Bị cáo là người phụ nữ dân tộc thiểu số, không biết chữ, hiểu biết xã hội còn nhiều hạn chế, chưa có tiền án, tiền sự. Ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn thực hiện đúng chính sách pháp luật của nhà nước, thể hiện bị cáo là người có nhân thân tốt.

[6] Các vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đã bán hê rô in, người mua hê rô in và người làm thuê (lấy củi) cho Lờ Thị S, nhưng do S không biết tên và địa chỉ của những người này nên không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý trước pháp luật.

[7] Về vật chứng và tài sản liên quan đến vụ án:

- Vật chứng là chất bột nén màu trắng là ma túy, loại hê rô in còn lại, sau khi lấy mẫu giám định, được niêm phong, trong một phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu huỷ.

- Vật chứng là 04 vỏ phong bì, giấy ni lon gói sau khi lấy mẫu giám định, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Vật chứng là số tiền 3.730.000 đồng (Trong đó: 300.000 đồng là tiền do phạm tội (bán hê rô in) mà có cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; 3.430.000 đồng là tiền bị cáo vay bố đẻ là ông Lờ A Ch để chữa bệnh và tiền thu nhập hợp pháp của bị cáo không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo).

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lờ Thị S phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý "

1. Về hình phạt:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lờ Thị S 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 13/3/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: - 04 (bốn) vỏ phong bì, giấy ni lon gói sau khi lấy mẫu giám định.

- 01 (một) phong bì niêm phong do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành. Mặt trước có ghi: Vật chứng thu giữ Lờ Thị S- phạm tội về ma túy, thu giữ ngày 12/3/2019 tại bản Háng Gàng, xã Lao Chải, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. (sau khi lấy mẫu giám định). Mặt sau phong bì các mép được dán kín có họ tên, chữ ký của Trương Xuân Ngọc, Giàng A Sinh, Sùng A Chư, Trần Nhật Tân, Vương Văn Điển và các hình dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

- Trả lại cho bị cáo 3.430.000 đồng (Ba triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng)) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Bị cáo Lờ Thị S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mù Căng Chải - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về