Bản án 22/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 6 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 12/6/2019 đối với bị cáo:

Bùi Ngọc S, sinh ngày 02 tháng 8 năm 1970 tại xã Thuận L, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn H, xã Thuận L, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân L(đã chết) và bà Nguyễn Thị Hồng M (đã chết); có vợ: Vũ Thị X– sinh năm 1973 và 03 con; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 26/12/2018 bị công an thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt vi phạm hành chính tại quyết định số 11 ngày 26/12/2018, về hành vi đánh bạc, mức phạt 1.500.000 đồng; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại ở địa phương; “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Thái Thanh S– sinh năm 1975; Nơi cư trú: Thôn A, xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; “vắng mặt”

+ Trần Văn C– Sinh năm 1964; Nơi cư trú: Thôn B , xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Làm ruộng; “vắng mặt”

+ Trần Đình H– Sinh năm 1965; Nơi cư trú: Thôn C, xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Làm ruộng; “vắng mặt”

+ Trần Trọng C– Sinh năm 1967; Nơi cư trú: Thôn A, xã Xuân H, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Làm ruộng; “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Ngọc S là người đang có một tiền sự về hành vi đánh bạc, bị Công an thị xã H xử phạt vi phạm hành chính tại quyết định số 11 ngày 26/12/2018, mức phạt 1.500.000 đồng. Khoảng 7 giờ ngày 14/3/2019, Bùi Ngọc S đi từ nhà ở của mình đến đền Chợ Củi thuộc thôn 1 xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân để thắp hương. Sau đó S gặp Trần Trọng C là người quen trước đó tại quán ăn sáng. Khoảng 8 giờ cùng ngày, S cùng Trần Đình H, Trần Văn C, Thái Thanh S (còn gọi là S “Lay”) vào nhà C để chơi, uống nước. Tại đây S cùng H, C, S “Lay” rủ nhau đánh bài được thua bằng tiền. Do không có sẵn bài nên mọi người nhờ C đi mua hộ hai bộ bài tú lơ khơ 52 quân, rồi không nhớ ai rải chiếu xuống nền nhà bếp của gia đình C để đánh bạc. Hình thức đánh: Có tất cả 4 người chơi, người cầm cái chia bộ bài tú lơ khơ 52 quân lần lượt cho cả 4 người chơi, mỗi người 09 quân, riêng người chia bài là 10 quân, sau đó người cầm cái đánh mỗi lần một quân về phía người ngồi bên phải, mỗi người đánh 4 lượt, kết thúc 04 lượt đánh thì hạ bài, ai không có “phỏm” thì “cháy”, ai có phỏm thì hạ xuống và tính số điểm còn lại của các quân bài, ai ít điểm nhất thì thắng. Nếu trong một ván bài ai có ba phỏm hoặc những con bài trên tay kết thành phỏm hết thì gọi là “ù”, những người còn lại đều thua và mỗi người đưa cho người ù 50.000 đồng, còn nếu không ù thì người thua phải đưa cho người thắng 10.000 đồng/ván, người cháy đưa cho người thắng 40.000 đồng/ván. Như vậy mỗi ván bài thắng được nhiều nhất là 150.000 đồng.

Trước khi đánh bạc, Bùi Ngọc S có 250.000 đồng, sử dụng cả 250.000 đồng để đánh bạc và bị thua hết. 

Trần Đình H có 700.000 đồng để đánh bạc, đánh mấy ván không nhớ, thắng được 400.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng).

Trần Văn C có 1.410.000 đồng (một triệu bốn trăm mười ngàn đồng) để đánh bạc, đánh mấy ván không nhớ, bị thua 440.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 970.000 đồng (chín trăm bảy mươi ngàn đồng).

Thái Thanh S có 250.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt bị thu giữ 440.000 đồng (bốn trăm bốn mươi ngàn đồng).

Ngoài ra có 100.000 đồng các đối tượng tự nguyện trích ra 10.000 đồng mỗi khi “ù” để trên chiếu để cuối buổi đưa cho C trả tiền nước.

Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng công an huyện Nghi Xuân phát hiện, bắt giữ. Lực lượng chức năng thu giữ tại chiếu bạc 2.610.000 đồng (hai triệu sáu trăm mười ngàn đồng), 01 chiếc chiếu và 02 bộ bài tú lơ khơ.

Vật chứng của vụ án:

- 2.610.000 đồng (Hai triệu sáu trăm mười ngàn đồng), 01 chiếc chiếu cói và 02 bộ bài tú lơ khơ. Các vật chứng hiện đang thu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Nghi Xuân.

Bản cáo trạng số 22 ngày 28 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Bùi Ngọc S về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321, điểm i và điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 6 đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 đến 18 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm và xử phạt bổ sung đối với bị cáo với mức từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.610.000 đồng (Hai triệu sáu trăm mười ngàn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chiếu cói và 02 bộ bài tú lơ khơ.

Tại phiên tòa bị cáo đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không có tranh luận và chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nhận định của Tòa án về việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa: Phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng xét việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử nên không cần thiết phải hoãn phiên tòa phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về tội danh; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các điều luật áp dụng đối với bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Bùi Ngọc S đều khai nhận tội đúng như nội dung vụ án đã được nêu tóm tắt ở phần nội dung vụ án. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; phù hợp với biên bản sự việc và phù hợp với vật chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Xét thấy đây là vụ án mang tính chất giản đơn, số tiền thu giữ tại chiếu bạc và luân chuyển trên một ván bài không nhiều, bị cáo Bùi Ngọc S không phải là người cầm đầu rủ rê, không chuẩn bị công cụ phương tiện để đánh bạc và chỉ sử dụng 250.000 đồng để đánh bạc. Số tiền bị cáo sử dụng dưới 5.000.000 đồng nhưng bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép” và xét năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo thì đã có đầy đủ cơ sở để kết luận bị cáo Bùi Ngọc S phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội, làm quần chúng nhân dân lên án và bất bình. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội do đó cần phải xử phạt nghiêm đối với bị cáo cũng như răn đe và phòng ngừa chung. Tuy vậy khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm i và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét bị cáo phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú rõ ràng do đó không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo và áp dụng khoản 3 điều 321 bộ luật hình sự xử phạt hình phạt bổ sung đối với bị cáo 10.000.000 đồng là phù hợp.

Trong vụ án có Trần Đình H, Trần Văn C, Thái Thanh S tham gia đánh bạc, Trần Trọng C có hành vi đi mua hộ hai bộ bài và để cho Bùi Ngọc S cùng các đối tượng trên thực hiện hành vi đánh bạc tại nhà ở của mình, nhưng do tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc chưa đủ mức truy cứu trách nhiệm hình sự, bốn đối tượng này chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc và hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật hình sự nên cơ quan điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng trên.

[3] Phân tích chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo:

Xét các nội dung đề xuất đối với Hội đồng xét xử của Kiểm sát viên và bị cáo tại phiên tòa là phù hợp do đó Hội đồng xét xử chấp nhận các đề nghị này.

[4] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan, những người tiến hành tố tụng. Nên hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.610.000 đồng (Hai triệu sáu trăm mười ngàn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chiếu cói và 02 bộ bài tú lơ khơ

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí; Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i và điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm a và điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 điều 21, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

[1] Tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc S phạm tội “Đánh bạc”.

[2] Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc S 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Bùi Ngọc S cho UBND xã Thuận L, thị xã H, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Nếu trong thời gian thử thách bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Xử phạt hình phạt bổ sung đối với bị cáo 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để nộp vào ngân sách nhà nước.

[3] -Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.610.000 đồng (Hai triệu sáu trăm mười ngàn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chiếu cói và 02 bộ bài tú lơ khơ.

[4] Buộc bị cáo Bùi Ngọc S phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Bị cáo có quyền kháng cáo lên tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về