Bản án 22/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện D xét xử sơ thẩm công kH vụ án hình sự thụ lý số 13/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị L (tên gọi khác: M) - sinh năm 1961 tại N - Khánh Hòa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: 245 Đường P - phường V - tp. N - Khánh Hòa; Thường trú: tổ dân phố C 1 - thị trấn D - D - Khánh Hòa; Nghề nghiệp: kinh doanh lưu trú; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn D (chết) và bà Nguyễn Thị H (1940); Có chồng Nguyễn Văn T (chết) và có 04 con (lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1993); Tiền sự, tiền án: không; Bắt tạm giam ngày 25/12/2018; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị L là chủ hộ kinh doanh cho thuê lưu trú Th tại tổ dân phố số 08 (nay là tổ dân phố C 1) - thị trấn D. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 20/01/2015, Nguyễn D và Nguyễn Tr rủ nhau đến nhà trọ Th để mua dâm. Khi đến nhà trọ, gặp Trương Thị A (là người làm thuê tại nhà trọ), B hỏi “ở đây có đào không?” thì A nói “có”. A dẫn B vào phòng C3, Tr vào phòng B3 của nhà trọ Th. A nhận 300.000đ (bao gồm tiền mua dâm và tiền phòng) rồi đi báo lại cho L biết có 02 khách đến mua dâm. L gọi điện thoại cho Nguyễn Mỹ D (sinh ngày 01/11/1999) và Lê Thị Thùy C (sinh năm 1993) đến nhà trọ để bán dâm cho khách. Khoảng 15 phút, D và C đến, A đưa cho mỗi người một bao cao su rồi dẫn D vào phòng C3, C vào phòng B3. Khi D vào phòng C3, Tr nhìn thấy D nhỏ tuổi nên yêu cầu đổi người khác. Tại phòng B3, khi D và C đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị tổ công tác Công an huyện D kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Ngoài lần phạm tội bị bắt quả tang, Nguyễn Thị L còn khai nhận đã nhiều lần gọi Nguyễn Mỹ D, Lê Thị Thùy C đến nhà trọ Th bán dâm cho khách.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSDK ngày 21/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Chứa mại dâm” theo điểm a khoản 3 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D - tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 47; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo L từ 05 năm đến 06 năm tù về tội “Chứa mại dâm”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định ngày 20/01/2015, Nguyễn Thị L - chủ nhà trọ Th (tổ dân phố C 1 - thị trấn D) đã có hành vi chứa mại dâm. Ngoài lần phạm tội này, bị cáo L còn khai ra trước đó đã nhiều lần điện thoại cho Nguyễn Mỹ D (sinh ngày 01/11/1999) và Lê Thị Thùy C đến nhà trọ Th để bán dâm cho khách. Vì vậy, hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm” với tình tiết định khung hình phạt là đối với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Căn cứ vào Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 thì cần thiết áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 để có lợi cho bị cáo. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo L với tội danh nêu trên theo điểm a khoản 3 Điều 327 của Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của người Việt Nam nên cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khai ra những lần phạm tội trước đó, bản thân chưa tiền sự, tiền án nên chỉ cần xét xử bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo phạm tội vào thời điểm năm 2015 nên cần áp dụng những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo Bộ luật hình sự năm 1999 để có lợi cho bị cáo khi lượng hình để bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung : cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo L, buộc bị cáo phạt bổ sung là 10.000.000đ.

[5] Vật ch ứng : 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 3 màu trắng là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; 02 bao cao su còn nguyên chưa qua sử dụng, màu vàng, vỏ bao in chữ “VIP” cần tịch thu tiêu hủy; Trả lại cho bị cáo L 01 giấy chứng nhận đăng kinh doanh hộ kinh doanh số 037E000449.

[6] Về án phí

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Tuy nhiên, hình phạt bổ sung, án phí hình sự sơ thẩm đã được bị cáo thực hiện đầy đủ và vật chứng đã được xử lý tại Quyết định thi hành án chủ động số 67/QĐ-CCTHADS ngày 25/10/2017 của Chi cục Thi hánh án dân sự huyện . Do đó, bị cáo đã thi hành xong các phần hình phạt bổ sung, vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 327 của Bộ luật năm Hình sự 2015; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm o, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo Nguyễn Thị L (M).

 Xử phạt : bị cáo Nguyễn Thị L (M) 05 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2018 (được trừ thời gian bị cáo L đã thi hành án từ ngày 25/10/2017 đến ngày 24/12/2018 và thời gian bị tạm giữ từ ngày 20/01/2015 đến ngày 23/01/2015).

Hình phạt bổ sung : bị cáo Nguyễn Thị L (M) nộp phạt bổ sung 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

Vật chứng : Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 3 màu trắng.

Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bao cao su còn nguyên chưa qua sử dụng, màu vàng, cỏ bao in chữ VIP.

Trả lại cho Nguyễn Thị L (M) 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh 037E000449.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/10/2015 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ).

Án phí: Bị cáo Nguyễn Thị L (M) nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị L đã thi hành xong hình phạt bổ sung, vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm theo Quyết định thi hành án chủ động số 67/QĐ-CCTHSDS ngày 25/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D - Khánh Hòa.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về