Bản án 22/2019/HSST ngày 18/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 22/2019/HSST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở TAND huyện Tuy Đức, tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2019/HSST, ngày 20/5/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Bá D; sinh 1998; Nơi sinh: Tại tỉnh H T; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Tổ DP1, thị trấn K Đ, huyện Đ R L, tỉnh Đắk Nông ; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: kinh; Con Nguyễn Đình S (sinh năm 1954) và bà Trần Thị H (sinh năm 1964); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án; không; Tiền sự: Có 01 tiền sự. Ngày 08/12/2018 bị Công an huyện ĐắkR’Lấp xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/4/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông. Hiện đang tạm giam - Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1981; Địa chỉ: Bon B N D, xã Q T, huyện T Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

Ngưi có quyền lợi liên quan: Bà Trần Thị H, sinh năm 1964; Địa chỉ: Tổ DP1, thị trấn K Đ, huyện Đ R L, tỉnh Đắk Nông – Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ ngày 14/02/2019, Nguyễn Bá D rủ Trần Thanh Q, Hà Văn T (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đến huyện Tuy Đức tìm tài sản của người dân để sơ hở trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài thì được cả bọn đồng ý. Nguyễn Bá D điều khiển xe mô tô biển số 48F9-7534 màu đen, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe ULTIMO của bà Nguyễn Thị H (mẹ của D) chở Q và T đi theo hướng tỉnh lộ 681 hướng từ Kiến Đức đến trung tâm huyện Tuy Đức. Trên đường đi Trần Thanh Q nhặt ở vệ đường 02 vỏ bao (loại bao xác rắn) mang theo. Đến khoảng 00 giờ ngày 15/02/2019 khi đi ngang nhà chị Nguyễn Thị T cả 03 người phát hiện thấy có tiêu phơi ở sân không có người trông coi nên T điều khiển xe mô tô đứng trước nhà bà T còn D và Q dùng 02 vỏ bao vừa nhặt được đi lại hướng sân phơi tiêu, nhưng do sân được rào bằng lưới B40 xung quanh khu vực nên Q và D khiêng 01 hòn đá (kích thước khoảng 25 x 35cm) đè lên lưới B40 đẩy theo hướng từ ngoài vào trong để vào được khu vực phơi tiêu. Sau đó D và T dùng tay hốt mỗi người 01 bao hạt tiêu với tổng trọng lượng của 02 bao là 44kg mang ra ngoài đường chỗ T đang đứng đợi sẵn, bỏ 02 bao hạt tiêu lên phía trước của gác ba ga xe mô tô, T điều khiển xe chở D và Q ngồi phía sau chạy ra hướng thị trấn K Đ để tìm chỗ bán hạt tiêu trộm cắp của nhà chị T. Đang trên đường đi thì bị tổ tuần tra Công an huyện Tuy Đức và Công an xã Quảng Tâm phát hiện, bắt giữ cùng tang vật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 07/KL-HĐĐGTS, ngày 21/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuy Đức, kết luận: 44kg tiêu hạt có giá trị tại thời điểm khảo sát là 585.200 đồng.

* Vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đã thu giữ:

- 01 xe mô tô biển số: 48F9-7534 màu đen, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe ULTIMO;

- 02 bao tải xác rắn đựng tiêu hạt tổng trọng lượng 44 kg (01 bao đựng 25kg, 01 bao đựng 19 kg).

Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đã ra quyết định xử lý vật chứng trả cho các chủ sở hữu hợp pháp bà Trần Thị H 01 xe mô tô biển số 48F9-7534 màu đen, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe ULTIMO; Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 02 bao tải xác rắn đựng tiêu hạt tổng trọng lượng 44 kg.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Nguyễn Thị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thiệt hại do bị cáo gây ra là không lớn.

Tại cáo trạng số: 21/Ctr-VKS, ngày 20/5/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức truy tố bị cáo Nguyễn Bá D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng, không oan.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm i, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38-BLHS 2015. Xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù. Trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 25/4/2019.

* Các biện pháp tư pháp:

- Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47, khoản 1, Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; Điều 585, 589 Bộ luật dân sự 2015:

Chấp nhận việc xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp bà Trần Thị H 01 xe mô tô biển số 48F9-7534 màu đen, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe ULTIMO; Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 02 bao tải xác rắn đựng hạt tiêu tổng trọng lượng 44 kg.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Nguyễn Thị T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đề cập giải quyết.

Phần tranh luận bị cáo không tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng: Bị cáo tỏ ra hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Đức, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS. Bị cáo, người bị hại, người liên quan không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Như vậy, do ý thức coi thường pháp luật lại muốn có tiền tiêu xài cá nhân nhưng không bằng chính sức lao động của mình nên vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 15/2/2019, tại bon Bu N D, xã Q T, huyện T Đ, tỉnh Đắk Nông, Nguyễn Bá D đã có hành vi trộm cắp của chị Nguyễn Thị T 02 bao tiêu hạt có trọng lượng là 44 kg. Tổng giá trị thiệt hại là 585.200 đồng (năm trăm tám mươi năm ngàn hai trăm đồng). Hành vi phạm tội nêu trên của Nguyễn Bá D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173- BLHS.

Tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Tại phiên tòa hôm nay HĐXX nhận thấy bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tại phiên tòa cũng như trong giai đoạn điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại i,h, s khoản 1 Điều 51- BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). HĐXX sẽ áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng do ý thức coi thường pháp luật, lười lao động nhưng lại muốn hưởng thụ trên công sức lao động của người khác. Hành vi của bị cáo ngoài việc xâm phạm đến tài sản của người khác còn gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân cũng như ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Tuy nhiên trước khi phạm tội bị cáo có 01 tiền sự, vào ngày 08/12/2018 bị Công an huyện ĐắkR’Lấp xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy, HĐXX xét thấy cần giành cho bị cáo một hình phạt đủ nghiêm để bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Đối với Trần Thanh Q và Hà Văn T cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội với bị cáo D nhưng hiện nay đã bỏ trốn khỏi địa phương. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Khi nào xác định được nhân thân, lai lịch sẽ xử lý sau.

[6] Về vật chứng của vụ án: Chấp nhận việc xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức trả lại cho bà Trần Thị H 01 xe mô tô biển số 48F9-7534 màu đen, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe ULTIMO; Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 02 bao tải xác rắn đựng hạt tiêu tổng trọng lượng 44 kg.

[7] Về phần bồi thường dân sự: Người bị hại chị Nguyễn Thị T không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập giải quyết.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Bá D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm i, h, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá D 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/4/2019.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14. Buộc bị cáo Nguyễn Bá D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo Nguyễn Bá D được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại; Người có quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HSST ngày 18/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về