TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H A - TỈNH C B
BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H A, C B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:
Luân Văn S; sinh ngày 13 tháng 01 năm 1997 tại HA, CB; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm Khẩy Tấu, xã Hồng Nam, huyện HA, tỉnh CB; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Luân Văn Thanh và bà Hoàng Thị Niên; Vợ: Cao Thu Vân, con: Luân Anh Nghĩa; Tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 06/12/2018 bị Công an huyện Quảng Uyên xử phạt vi phạm hành chính về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bằng hình thức phạt tiền; Tiền án: không. bị cáo bị bắt tạm giữ 09 ngày (từ ngày 26/3/2019 - 04/4/2019), và được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ 19 giờ ngày 04/4/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo: Ông Nông Văn D - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh CB. có mặt.
- Bị hại: Ông Đoàn Văn Tr; sinh năm: 1998; có mặt. Trú tại: Xóm Nà Tổng, xã Lê Chung, huyện HA, tỉnh CB.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nông Văn C; sinh năm: 1986; có mặt;
Địa chỉ: Nà Rị, Nam Tuấn, HA, CB.
2. Bà Hoàng Trương Hệ, sinh năm: 1996; vắng mặt có lý do.
Địa chỉ: Nà Rặc, Phù Ngọc, Hà Quảng, Cao Bằng.
3. Bà Cao Thu Vân; sinh năm: 1999; có mặt;
Địa chỉ: Khẩy Tấu, Hồng Nam, HA, CB.
- Người làm chứng: Ông Đinh Ngọc Hồ; sinh năm: 1996;
Địa chỉ: Khuổi Lịch, Hồng Nam, HA, CB. vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 14/3/2019, Luân Văn S rủ Đinh Ngọc Hồ đến nhà Trương Văn B ở Nà Tổng, Hồng Nam, HA, CB chơi. khi đến nhà B thì có Đoàn Văn Tr (Sinh năm 1998, trú tại Lê Chung, HA, CB) đã ở đó từ trước, sau đó mọi người cùng ngồi uống nước, uống rượu tại nhà của B. Khoảng 15 giờ cùng ngày S mượn điện thoại của Truyền chơi điện tử nhưng sau khi được Truyền cho biết đây là điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime thì S lại nảy sinh ý định chiếm đoạt để đem bán lấy tiền tiêu xài. S trả chiếc điện thoại cho Truyền rồi đi ra sau nhà B và dùng điện thoại của mình gọi qua ứng dụng Messenger trên mạng Facebook cho Nông Văn C(sinh năm 1986, trú tại Nà Rị, Nam Tuấn, HA, CB – C có tên tài khoản nickname là Nông Thanh L và có cửa hàng mua bán điện thoại cũ, mới tại thị trấn Nước Hai) để hỏi giá trị chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime thì được C trả lời: "Nếu điện thoại tốt, đẹp thì được khoảng hai triệu". Hỏi C xong thì S quay vào nhà và tiếp tục ngồi uống rượu, đến khoảng gần 16 giờ cùng ngày S lại mượn điện thoại của Truyền và nói là để gọi điện cho người khác nhưng khi cầm được điện thoại của Truyền thì S đi ra khỏi nhà B và điều khiển xe mô tô (xe Honda Winner đã tháo biển kiểm soát) đi thẳng ra thành phố Cao Bằng, trong khi đi S có gọi điện hẹn gặp C ở khu vực gần cổng bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng để bán lại cho C chiếc điện thoại nói trên. Tuy nhiên khi gặp nhau C chỉ trả cho S 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) do chiếc điện thoại đã bị nứt vỡ màn hình ở vị trí loa thoại, còn 02 (hai) chiếc thẻ sim đang có trong chiếc điện thoại của Truyền sau đó S đã vứt lại ở khu vực ngã tư Nà Cáp, phường Sông Hiến, Thành phố CB. Sau khi mua điện thoại của Luân Văn S, Nông Văn Cđã tiếp tục bán, đổi lại cho chị Hoàng Trương H (sinh năm 1996, trú tại: Nà Rặc, Phù Ngọc, HQ, CB) với thỏa thuận: Chị H đưa cho C chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 màu vàng của chị Hệ và bù thêm cho C số tiền là 1.300.000 đồng và được chị H đồng ý.
Về số tiền 1.800.000 đồng có được sau khi bán điện thoại: Luân Văn S đã dùng 300.000 đồng để đi mua ma túy ở khu vực ngã tư Nà Cáp, phường Sông Hiến, thành phố CB với một người đàn ông không quen biết về sử dụng cho bản thân, 300.000 đồng mua đồ ăn và tiêu vặt, còn lại 1.200.000 đồng S mang về nhà ở Khẩy Tấu, Hồng Nam, HA, CB và để dưới gối đầu giường trong phòng ngủ của hai vợ chồng. Vợ của S là chị Cao Thu Vdo không biết nguồn gốc số tiền này nên đã dùng 700.000 đồng để chi tiêu, mua quần áo cho con và đưa cho S 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để đổ xăng xe. Đến ngày 26/3/2019, sau khi biết đây là tiền do phạm pháp mà có chị Vân đã tự nguyện giao nộp số tiền còn lại là 300.000 đồng cho Cơ quan điều tra. Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Hòa An cũng đã thu giữ số tiền còn lại là 200.000 đồng trên người của Luân Văn S đồng thời tạm giữ một số phương tiện, đồ vật gồm:
- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu đỏ –đen của Luân Văn S đã tháo biển kiểm soát (Qua xác minh có biển kiểm soát 11H1 - 165.20).
- 01 (Một) chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy J7 Prime do chị Hoàng Trương H giao nộp.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 08/Kl-ĐGTS, ngày 25/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hòa An kết luận: "01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng đồng (Màu gold) đã qua sử dụng, số kiểu máy: SM-G610F/OS, số seri: R58J104XRPF trị giá: 1.850.000 đồng (Bằng chữ: Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng chẵn)".
Tại Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Hoà An, Luân Văn S đã khai nhận thêm ngoài hành vi phạm tội nói trên, trước đó S đã thực hiện 02 lần hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cụ thể:
Lần 01: Vào khoảng đầu tháng 09/2018 S đã mượn điện thoại Iphone 5 của Hoàng Văn Tuân, trú tại: Hà Trì, HA, CB đem đi cầm đồ, nhưng sau đó bị Tuân phát hiện ra và đã hoàn trả bằng tiền cho Tuân là 1.000.000đ (Tuân không báo cơ quan pháp luật).
Lần 02: Vào khoảng tháng 10/2018, S đã mượn điện thoại của bạn Duy, trú tại:
Đống Đa, Quảng Uyên, Cao Bằng và đem đi bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, hành vi này đã bị cơ quan Công an huyện Quảng Uyên, CB ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với số tiền là 1.000.000đ (một triệu đồng).
Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKSHA ngày 20/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H A, C B đã truy tố bị cáo Luân Văn S phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo Luân Văn S đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như trong hồ sơ thể hiện và nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện H A, C B đã truy tố.
- Bị hại: Đoàn Văn Tr xin được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Trương H tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt xác nhận đã được C bồi thường bằng 01 điện thoại khác nên không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm; ông Nông Văn C yêu cầu bị cáo S phải có trách nhiệm bồi thường lại số tiền 1.800.000đ mà C đã bỏ ra mua điện thoại với lý do khi mua bán S nói là điện thoại của S và không biết đó là tài sản do phạm tội mà có; bà Cao Thu Vxin được tiếp tục sử dụng chiếc xe máy Honda Winner vì đây là tài sản chung của vợ chồng, khi S lấy đi và sử dụng vào việc phạm tội Vân không biết.
- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm a Khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Luân Văn S từ 09 - 12 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại tài sản giữa bị cáo S với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nông Văn C với số tiền là 1.800.000đ Về Xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 47 của Bộ luật Hình Sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên trả cho bị hại Đoàn Văn Tr 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng đồng (Màu Gold) đã qua sử dụng, số kiểu máy: SM-G610F/DS, số sê ri: R58j104XRPF.
- Tịch thu xung quỹ Nhà nước số tiền: 500.000đ là số tiền do bị cáo phạm tội mà có.
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner đã qua sử dụng, màu đỏ - đen, số khung: RLHKC 2609GY086097, số máy: KC26E1119695 đây là phương tiện phục vụ việc đi lại thường xuyên hàng ngày của gia đình chứ không phải công cụ, phương tiện phạm tội, đề nghị HĐXX trả lại cho bị cáo.
Về án phí: Căn cứ Điều 135 Của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc bị cáo S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trợ giúp viên pháp lý trình bày bản luận cứ bào chữa cho bị cáo: Về hành vi bị cáo đã thực hiện và bị Viện kiểm sát truy tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo S là người dân tộc, sống ở vùng sâu, vùng xa, nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, bị cáo năm 2018 đi lao động làm thuê ở các khu công nghiệp, sống xa vợ con, bị bạn bè rủ rê sử dụng ma túy dẫn đến mắc nghiện, để có tiền mua ma túy bị cáo đã phạm tội. Bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, giá trị tài sản bị chiếm đoạt không lớn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có Bà là người có công nên đề nghị HĐXX áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Luân Văn S 09 tháng tù.
Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh và hình phạt. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị cáo đã thực hiện, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua đó đã chứng minh được: Khoảng 15 giờ ngày 14/3/2019, khi đang ngồi chơi tại nhà anh Trương Văn B trú tại: Nà tổng, Hồng Nam, HA, CB, Luân Văn S thấy Đàm Văn Truyền trú tại: Lê Chung, HA, CB có chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt, Luân Văn S đã viện cớ để mượn chiếc điện thoại của Truyền giả vờ ra ngoài gọi điện, sau đó nổ xe máy Honda winner của S đi ra đến khu vực gần Bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng bán lại cho Nông Văn C trú tại: Nà Rị, Nam Tuấn, HA, CB được 1.800.000 (Một triệu tám trăm nghìn đồng) chi dùng cho cá nhân. Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 08 ngày 25/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hòa An xác định: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng đồng (Màu Gold) đã qua sử dụng trị giá 1.850.000đ (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). Hành vi của bị cáo S về trị giá tài sản tuy chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng vào tháng 12/2018 Luân Văn S đã bị Công an huyện Quảng Uyên xử phạt vi phạm hành chính về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tính đến thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trên chưa được xóa án tích. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự, hành vi của Luân Văn S đã cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, điểm a khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự quy định “ Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”.
Như vậy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác là phạm pháp, nhưng vì bản thân nghiện Heroine, để có tiền sử dụng ma túy bị cáo bất chấp pháp luật, thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, với giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 1.850.000 đồng (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra bị cáo đều khai báo thành khẩn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt không lớn, người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đối với đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 của Điều 51 với lý do là có Bà là người có công với cách mạng, HĐXX thảo luận không nhất trí với đề nghị trên vì tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo chưa cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh nên không có căn cứ xem xét.
[5] Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Luân Văn S có 01 tiền sự về hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, bị Công an huyện Quảng Uyên, tỉnh CB xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm, bản thân mắc nghiện Heroine, để có tiền sử dụng ma túy bị cáo liên tiếp thực hiện các hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy các hành vi lạm dung tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trước đó đã được thỏa thuận bồi thường và xử lý nhưng cũng thể hiện việc nếu để bị cáo ở ngoài xã hội tự cải tạo bản thân là không có hiệu quả. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, để bị cáo có cơ hội sửa chữa, cải tạo bản thân trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội sau này. Từ đó, nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Tuy nhiên khi lượng hình, HĐXX sẽ cân nhắc xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ khai báo thành khẩn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt không lớn, bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại tài sản nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có công ăn việc làm, không có thu nhập, chưa có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại tài sản giữa bị cáo S với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nông Văn C với số tiền là 1.800.000đ
[8] Về việc xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (Một) chiếc xe mô nhãn hiệu Honda Winner đã qua sử dụng, màu đỏ - đen, số khung: RLHKC 2609GY086097, số máy: KC26E1119695, đây là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, khi S lấy xe đi sử dụng và việc phạm tội vợ bị cáo chị Vân không biết, xe là tài sản duy nhất để gia đình làm phượng tiện đi lại. Do đó, cần trả lại cho gia đình là phù hợp quy định của pháp luật.
- Đối với 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng đồng (Màu Gold) đã qua sử dụng, số kiểu máy: SM- G610F/DS, số IMEI I: 355228/08/514552/0; số sê ri: R58j104XRPF, đây là tài sản của bị hại Đoàn Văn Tr, tại phiên tòa Tr yêu cầu được nhận lại nên cần chấp nhận.
- Đối với 02 phong bì tiền niêm phong, mặt trước ghi tang vật vụ Luân Văn S có ghi số tiền 200.000đ và 300.000đ mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong gồm bị cáo Luân Văn S, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Cao Thu Vvà có dấu của cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, đây là tài sản do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[9] Đối với ông Nông Văn C và bà Hoàng Trương H là người mua tài sản trộm cắp, tại thời điểm mua bán ông C, bà Hệ không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An không xử phạt vi phạm hành chính là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hành vi mua tài sản của Nông Văn C không đúng tại địa điểm đăng ký kinh doanh và ngành nghề kinh doanh (Phụ kiện điện thoại) là vi phạm pháp luật, đề nghị Cơ quan điều tra xem xét và xử lý hành vi kinh doanh không đúng địa điểm và ngành nghề kinh doanh trên giấy phép theo đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 174; Điểm b,i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Luân Văn S .
Tuyên bố: Bị cáo Luân Văn S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
Xử phạt: Bị cáo Luân Văn S 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án, bị cáo được trừ đi 09 ngày bị tạm giữ (từ ngày 26/3/2019 - 04/4/2019).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo S.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại tài sản giữa bị cáo S với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nông Văn C với số tiền là 1.800.000đ.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 47 của Bộ luật Hình Sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự,
Xử:
Trả lại 01 (Một) chiếc xe mô nhãn hiệu Honda Winner đã qua sử dụng, màu đỏ - đen, số khung: RLHKC 2609GY086097, số máy: KC26E1119695 cho gia đình bị cáo đại diện gia đình là vợ Cao Thu V trú tại Khẩy Tấu, Hồng Nam, HA, CB.
Trả lại 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng đồng (Màu Gold) đã qua sử dụng, số kiểu máy: SM- G610F/DS, số IMEI I: 355228/08/514552/0; số sê ri: R58j104XRPF cho bị hại Đoàn Văn Tr, trú tại Nà Tổng, Lê Chung, HA, CB.
Tịch thu sung quỹ 02 phong bì tiền niêm phong, mặt trước ghi tang vật vụ Luân Văn S, số tiền ghi trên phong bì lần lượt là 200.000đ và 300.000đ mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong bị cáo Luân Văn S, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Cao Thu Vvà có dấu của cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, đây là tài sản do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Toàn bộ vật chứng trên hiện đang được lưu tại kho Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa An theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/6/2019.
Về án phí: Áp dụng Điều 135 Của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Xử buộc bị cáo Luân Văn S phải chịu nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, và 300.000đ tiền án phí dân sự để sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 18/7/2019. người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Trương H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 22/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 22/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về