Bản án 22/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Trương Hải N, sinh ngày 20-6-1979, tại xã T, huyện H, tỉnh T; Nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Trương Thái B, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1951; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 17, ngày 27-3- 2014, bị Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt 30 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 10-01-2016, đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20-12-2018, đến ngày 23-12-2018 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Những người làm chứng:

1. Ông Khúc Đình V, sinh năm 1960; Nơi cư trú: Khu B, thị trấn H, huyện H, tỉnh T.

2. Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Thôn R, xã T, huyện H, tỉnh T.

3. Ông Trần Văn C, sinh năm 1961; Nơi cư trú: Khu Đ, thị trấn H, huyện H, tỉnh T.

(Đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi  15  giờ  30  phút  ngày  20-12-2018,  tại  đoạn  đường  39A  kéo  dài thuộc địa phận Khu B, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; tổ công tác Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Trương Hải N, sinh ngày 20-6-1979, trú tại Thôn P, xã T, huyện H, tỉnh T có hành vi cất dấu tại lòng bàn tay phải 01 gói giấy tráng kim màu trắng. Khi bị kiểm tra N đã thả gói giấy tráng kim màu trắng từ lòng bàn tay phải xuống đường cạnh chỗ  N đang đứng, Cơ quan Công an yêu cầu nhặt lên, kiểm tra bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, N khai nhận đó là ma túy loại Hêrôin, mục đích để sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành niêm phong gói ma túy trên trước sự chứng kiến của anh Khúc Đình V, sinh năm 1960, trú tại Khu B, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; anh Nguyễn Tuấn A sinh năm 1984, trú tại Thôn R, xã T, huyện H, tỉnh T; ông Trần Văn C, sinh năm 1961, trú tại Khu Đ, thị trấn H, huyện H, tỉnh T. Ngoài ra, còn thu giữ, quản lý tại túi áo khoác phía trong, bên trái N đang mặc 01 ví giả da đã cũ bên trong có số tiền 120.000 đồng; 01 thẻ điều trị Methadone của Trung tâm y tế huyện Hưng Hà mang tên Trương Hải N số thẻ 036.006.0192.

Tại Bản kết luận giám định số 454/KLGĐ- PC09 ngày 21-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu thu giữ của Trương Hải N gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có khối lượng 0,1709 gam (không phẩy một nghìn bẩy trăm linh chín gam). Heroine  STT:09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 26/CT-VKSHH ngày 26-3-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố Trương Hải N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trương Hải N khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 20-12-2018, bị cáo đang ở nhà thì có anh A là bạn bị cáo (họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể của anh A thì bị cáo không rõ) đến rủ bị cáo đi mua ma túy về sử dụng. Do là người nghiện ma túy nên bị cáo đồng ý. Sau đó anh A trở bị cáo bằng xe máy đi đến khu vực cầu Nại thuộc địa phận thị trấn Hưng Nhân, bị cáo đứng đợi còn anh A gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi (bị cáo không quen biết người này), giữa anh A và người đàn ông này trao đổi nội dung gì bị cáo không rõ, một lúc sau anh A cùng bị cáo đi về. Khi đến khu vực dốc V, thị trấn H, anh A đưa cho bị cáo 01 gói giấy tráng kim màu trắng, bị cáo cầm gói ma túy trên ở tay phải, khi đến hiệu thuốc ven đường anh A dừng xe để bị cáo vào mua xi lanh để sử dụng ma túy thì bị Công an huyện Hưng Hà kiểm tra. Do bị cáo hoảng sợ nên đã thả gói ma túy từ lòng bàn tay phải xuống đất, sau đó lực lượng Công an yêu cầu bị cáo nhặt lên và lập biên bản phạm pháp quả tang.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trương Hải N như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trương Hải N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Hải N từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 20-12-2018; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Trương Hải N là vật chứng  của  vụ  án,  sau  khi  giám định  được  niêm phong  trong  phong  bì  số 454/KLGĐ-PC09 ngày 21-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; trả lại cho bị cáo Trương Hải N 01 chiếc ví giả da đã cũ, 01 thẻ điều trị Methadone, tiền Việt Nam 120.000 đồng nhưng cần tiếp tục quản lý số tiền trên để đảm bảo thi hành án; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Lời khai của bị cáo Trương Hải N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 20-12-2018, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 18 giờ 05 phút ngày 20-12-2018 tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà ,tỉnh Thái Bình; Bản kết luận giám định số 454/KLGĐ - PC09 ngày 21-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của những người làm chứng là ông Khúc Đình V, sinh năm 1960, trú tại: khu B, thị trấn H, huyện Hưng Hà; anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1984, trú tại thôn Ruốm, xã Tân Hòa, huyện Hưng Hà và ông Trần Văn C, sinh năm 1961, trú tại Khu Đ, thị trấn H, huyện H, tỉnh T. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 20-12-2018, tại đoạn đường 39A kéo dài thuộc địa phận Khu B, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; bị cáo Trương Hải N, sinh năm 1979, nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện H, tỉnh T có hành vi tàng trữ trái phép 0,1709 gam ma túy, loại Heroin, mục đích để sử dụng, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Trương Hải N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định như sau: Điều 249 "Tội tàng trữ trái phép chất ma túy"

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...;

c)  Heroine,  Cocaine,  Methamphetamine,  Amphetamine,  MDMA  hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5.  Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Trương Hải N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Trương Hải N thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến giống nòi và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân xấu; bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng do mắc nghiện ma túy bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật. Do đó cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Trương Hải N khai số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà thu giữ của bị cáo ngày 20-12-2018 là do người đàn ông tên An mà bị cáo N quen biết qua một vài lần cùng sử dụng ma túy đưa cho bị cáo. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành điều tra nhưng không xác định được người đàn ông nói trên, ngoài lời khai của bị cáo N không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để xác định người đã đưa ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng của vụ án: Toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thu giữ, quản lý của bị cáo Trương Hải N sau khi giám định số còn lại được niêm phong trong phong bì số 454/KLGĐ- PC09 ngày 21-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cần tịch thu để tiêu huỷ; 01 ví giả da đã qua sử dụng, 01 thẻ điều trị Methadone của Trung tâm y tế huyện Hưng Hà mang tên Trương Hải N, tiền Việt Nam 120.000 đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại bị cáo nhưng cần tuyên tiếp tục quản lý số tiền trên của bị cáo để đảm bảo thi hành án là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Trương Hải N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Hải N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Hải N 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 20-12-2018.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

3.1.Tịch thu tiêu huỷ gồm: 0,1662 gam (không phẩy một nghìn sáu trăm sáu mươi hai gam) mẫu gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Trương Hải N trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 454/KLGĐ-PC09, ngày 21-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

3.2. Trả lại bị cáo Trương Hải N: 01 ví giả da màu đen đã qua sử dụng, 01 thẻ điều trị Methadone của Trung tâm y tế huyện Hưng Hà mang tên Trương Hải N số thẻ 036.0060192, tiền Việt Nam 120.000 đồng (Một trăm hai mươi nghìn đồng) nhưng tiếp tục quản lý số tiền 120.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27-3-2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án , buộc bị cáo Trương Hải N phải  chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trương Hải N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về