Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 22/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lY số 82/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 729/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 838/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, trú tại: Thôn T, xã A, huyện A, thành phố H, vắng mặt tại phiên tòa (có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn Đ, trú tại: Thôn T, xã A, huyện A, thành phố H, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 3 năm 2019, bản tự khai và biên bản lấy lời khai của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Văn Đ có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố H vào ngày 23 tháng 10 năm 2006. Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng có xảy ra nhiều mâu thuẫn và đến năm 2018 thì nhiều mâu thuẫn trở lên trầm trọng nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, không thông cảm chia sẻ với nhau, thường hay nghi ngờ lẫn nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng lúc nào cũng căng thẳng, vợ chồng sống với nhau Nng không có tình cảm. Chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống từ cuối năm 2018 cho đến nay, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Nay chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống với nhau được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh Hoàng Văn Đ. Về con chung: Chị T và anh Đ có 02 con chung là Hoàng Thị Quỳnh N, sinh ngày 22 tháng 7 năm 2008 và Hoàng Việt Y, sinh ngày 02 tháng 12 năm 2011. Chị T đề nghị được nuôi con Hoàng Thị Quỳnh N và anh Đ nuôi con Hoàng Việt Y. Hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị T và anh Đ không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Lời khai của anh Hoàng Văn Đ trình bày: Anh Đ không đồng Y ly hôn với chị T vì lY do chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống từ năm 2018, không xin phép gia đình nhà chồng, không quan tâm gì đến chồng con. Anh Đ cũng không lên toà để hoà giải, anh không thể chấp nhận được chị T và không tha thứ cho chị T để vợ chồng về đoàn tụ với nhau. Nay anh có Y kiến đề nghị Toà án căn cứ theo quy định pháp luật để giải quyết; về con chung: Anh Đ thống nhất với chị T vợ chồng có 02 con chung là Hoàng Thị Quỳnh N, sinh ngày 22 tháng 7 năm 2008 và Hoàng Việt Y, sinh ngày 02 tháng 12 năm 2011, anh Đ có Y kiến đề nghị toà án xem xét giải quyết cho anh được nuôi cả hai con và anh không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, công nợ: Anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố H tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn anh Hoàng Văn Đ không đến tham gia tố tụng tại phiên tòa là không tuân thủ các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Hoàng Văn Đ; về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con là Hoàng Thị Quỳnh N, sinh ngày 22 tháng 7 năm 2008 cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng, giao con Hoàng Việt Y, sinh ngày 02 tháng 12 năm 2011 cho anh Hoàng Văn Đ nuôi dưỡng cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Hai bên không ai phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, công nợ: Chị T và anh Đ không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét giải quyết; về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lývà sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị Nguyễn Thị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A, thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là anh Hoàng Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, không có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Nguyễn Thị T và bị đơn anh Hoàng Văn Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Văn Đ có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố H vào ngày 23 tháng 10 năm 2006. Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng có xảy ra nhiều mâu thuẫn và đến năm 2018 thì nhiều mâu thuẫn trở lên trầm trọng nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, không thông cảm chia sẻ với nhau, thường hay nghi ngờ lẫn nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng lúc nào cũng căng thẳng, vợ chồng sống với nhau nhưng không có tình cảm. Chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống từ cuối năm 2018 cho đến nay, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị T và anh Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không Đ được, yêu cầu ly hôn của chị Phương là có căn cứ và hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Văn Đ có 02 con chung là Hoàng Thị Quỳnh N, sinh ngày 22 tháng 7 năm 2008 và Hoàng Việt Y, sinh ngày 02 tháng 12 năm 2011. Ly hôn chị T đề nghị được nuôi con Hoàng Thị Quỳnh N, anh Đ nuôi con Hoàng Việt Y. Anh Đ đề nghị được nuôi cả hai con. Căn cứ vào các tài liệu xác minh thấy chị T và anh Đ hiện nay đều có việc làm, có thu nhập và có nơi ở ổn định đảm bảo nuôi con; cháu Hoàng Thị Quỳnh N và cháu Hoàng Việt Y trên 7 tuổi, đều có đơn đề nghị được ở với chị T và anh Đ. Căn cứ vào các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cho chị Nguyễn Thị T nuôi con Hoàng Thị Quỳnh N; giao anh Hoàng Văn Đ nuôi con Hoàng Việt Y là phù hợp và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Chị T và anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Hoàng Văn Đ.

2. Về con chung: Giao con là Hoàng Thị Quỳnh N, sinh ngày 22 tháng 7 năm 2008 cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng, giao con Hoàng Việt Y, sinh ngày 02 tháng 12 năm 2011 cho anh Hoàng Văn Đ nuôi dưỡng cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Văn Đ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị T đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017141 ngày 27 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, thành phố H. Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về