Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 01/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 22/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 01/7/2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 52/2019/TLST-HNGĐ ngày 26/02/2019 về việc: “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/5/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14/6//2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lô Thị Mỹ L , sinh năm 1994;

Nơi ĐKHKTT: Tổ 3, khu L, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Anh Nguyễn Quang H , sinh năm 1989;

Nơi ĐKHKTT: Tổ 3, khu L, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 20/11/2018, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lô Thị Mỹ L trình bày:

Chị và anh Nguyễn Quang H chung sống vợ chồng và có đăng ký kết hôn ngày 10/5/2012 tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Hai người kết hôn trên cơ sở tự nguyện và thời gian tìm hiểu nhau là một năm. Sau khi kết hôn, chị và anh H sống chung tại nhà của bố mẹ anh H ở tổ 3, khu L, phường Cẩm Tây, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc bình thường được 06 năm, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do anh H không quan tâm tới gia đình, chơi bời, đồng thời chị và anh H có quan điểm sống không phù hợp, chị và anh H đã nhiều lần cùng nhau khắc phục mâu thuẫn nhưng không thay đổi được gì. Chị và anh H đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay không ai quan tâm tới ai, gia đình hai bên và khu phố đã hòa giải nhưng cả hai đều không còn tình cảm nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H .

Quá trình chung sống chị và anh H có hai con chung là Nguyễn Phương V - sinh ngày 25/3/2012 và Nguyễn Ngọc H - sinh ngày 06/12/2016. Khi làm đơn ly hôn chị có quan điểm chị và anh H mỗi người nuôi 01 con, nhưng thời gian vừa qua chị thấy anh H vẫn không có trách nhiệm với các con và do tính chất công việc của anh H thường xuyên vắng nhà nên chị thay đổi quan điểm, chị yêu cầu được nuôi các con Hiện nay chị làm nghề tự do, thu nhập cũng ổn định, anh Huy đã từ lâu không có trách nhiệm với các con nên chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng.

Chị và anh H không có tài sản chung, không vay nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với bị đơn anh Nguyễn Quang H tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến để làm việc về việc chị L xin ly hôn, nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do và không có văn bản vì vậy tòa án không biết quan điểm của anh H về những nội dung chị L yêu cầu tòa án giải quyết, đồng thời tòa án cũng không tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán; Hội đồng xét xử đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân; bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối vớiyêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lô Thị Mỹ L, căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả nhận thấy có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lô Thị Mỹ L. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Quang H có nơi cư trú tại phường C thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh, nên yêu cầu xin ly hôn của chị Lô Thị Mỹ L thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Nguyễn Quang H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa và không có lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Hôn nhân giữa chị Lô Thị Mỹ L và anh Nguyễn Quang H có đăng ký kết hôn ngày 10/5/2012 tại Ủy ban nhân dân phường C thành phố Cẩm Phả là cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị L và anh H chung sống cùng bố mẹ anh H tại tổ 3 khu L phường C thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân như chị L trình bày là do chị L và anh H có quan điểm sống không hợp nhau, mặt khác anh H không quan tâm đến gia đình vợ con, hai người đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Chị L xác định chị không còn tình cảm với anh H nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Chị L và anh H có 02 con chung là Nguyễn Phương V - sinh ngày 25/3/2012 và Nguyễn Ngọc H - sinh ngày 06/12/2016, chị L có quan điểm khi ly hôn chị đề nghị giao cho chị trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng. Về tài sản chung và công nợ chung, chị L có quan điểm chị và anh H không có tài sản chung, không có công nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Quanh H, không đến tòa án làm việc và cũng không có quan điểm gửi về tòa án, vì vậy tòa án không biết quan điểm của anh H về những nội dung chị Linh yêu cầu tòa án giải quyết.

a án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ, tại Biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 22/5/2019 tại khu L phường C thành phố Cẩm Phả thể hiện nội dung tình trạng hôn nhân, con chung của chị L và anh H về cơ bản đúng như chị L đã trình bày.

[3] Từ các dẫn chứng trên, Hội đồng xét xử xét thấy giữa chị L và anh H cuộc sống chung không còn tồn tại, mỗi người sống một nơi không ai quan tâm đến ai. Việc anh H không đến Tòa án làm việc, không có quan điểm gửi đến tòa án, chứng tỏ anh H cũng không có trách nhiệm với hôn nhân của chính mình. Tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ quy định tại điều 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L .

Khi ly hôn, chị L có quan điểm giao cho chị quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung và chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng. Đối với yêu cầu này của chị L , Hội đồng xét xử xét thấy chị L đang là người trực tiếp nuôi dưỡng các con, anh H không quan tâm, không có trách nhiệm với các con và hơn nữa anh H thường xuyên vắng nhà, vì vậy giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là tốt hơn cho các con; chị L nhận trách nhiệm nuôi các con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng, xét thấy đề nghị này là tự nguyện được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị L xác định là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Lô Thị Mỹ L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228; Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Áp dụng Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lô Thị Mỹ L.

Cho chị Lô Thị Mỹ L được ly hôn với anh Nguyễn Quang H .

Giao cho chị Lô Thị Mỹ L có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung Nguyễn Phương V - sinh ngày 25/3/2012 và Nguyễn Ngọc H - sinh ngày 06/12/2016 cho đến khi đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Quang H không phải cấp dưỡng nuôi con; anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lô Thị Mỹ L không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

Về án phí: Chị Lô Thị Mỹ L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Linh đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004403 ngày 20/02/2019 của Chi cục Thi thành án dân sự thành phố Cẩm Phả. Chị L đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn, báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 01/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:22/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về